Heniochus varius là một loài cá biển thuộc chi Heniochus trong họ Cá bướm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829.

Heniochus varius
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Acanthuriformes
Họ (familia)Chaetodontidae
Chi (genus)Heniochus
Loài (species)H. varius
Danh pháp hai phần
Heniochus varius
(Cuvier, 1829)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Taurichthys varius Cuvier, 1829
  • Taurichthys viridis Cuvier, 1831
  • Taurichthys bleekeri Castelnau, 1875

Từ nguyên sửa

Tính từ định danh varius trong tiếng Latinh có nghĩa là "khác biệt", không rõ hàm ý, nhiều khả năng đề cập đến phần xương nhô lên ở đầu của loài cá này, được cho là kiểu hình dị thường vào thời điểm chúng được mô tả.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

Từ đảo Giáng Sinh và các rạn san hô vòng ngoài khơi Tây Úc, H. varius được phân bố trải dài về phía đông, băng qua khu vực Đông Nam Á và một số đảo quốc thuộc châu Đại Dương đến quần đảo Société, ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến rạn san hô Great BarrierNouvelle-Calédonie.[1][3]

Việt Nam, H. varius được ghi nhận tại cù lao Chàm (Quảng Nam);[4] đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);[5] bờ biển Phú Yên[6]Ninh Thuận;[7] cù lao Câu (Bình Thuận);[8] vịnh Nha Trang (Khánh Hòa);[9] quần đảo Hoàng Sa.[10]

H. varius sống tập trung ở khu vực có nhiều san hôtảo phát triển trên đới sườn dốc của rạn viền bờ và trong đầm phá, thường gần những hang hốc ở độ sâu khoảng 2–30 m.[1]

Mô tả sửa

 
Gai vây lưng vươn cao ở H. varius

H. varius có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 19 cm.[11] Gai vây lưng thứ tư vươn dài và lớp màng bao quanh gai này căng rộng hơn những gai còn lại (đặc điểm của các loài Heniochus). Trán của H. varius lõm vào trong (tạo thành một phần xương lồi trên trán) với một cặp xương ngắn nhô lên ở trên mắt như sừng. Thân có màu nâu sẫm gần như đen (vàng nâu ở vùng lưng và vây lưng) với 2 dải sọc chéo màu trắng: dải thứ nhất từ gáy băng qua nắp mang xuống ngực, và dải thứ hai từ phần gai vây lưng băng xuống cuống đuôi. Vây đuôi và vây ngực gần như trong suốt, các vây còn lại màu nâu đen.[12]

H. variuskiểu hình khá giống với Heniochus pleurotaenia nhưng thiếu vùng màu đen sẫm sau gốc vây ngực như H. pleurotaenia.[13]

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 22–24; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–18; Số tia vây ở vây ngực: 14–15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 55–65.[12]

Sinh thái học sửa

Thức ăn của H. varius là các loài thủy sinh không xương sống như cua hoặc giun nhiều tơ,[14] nhưng cũng có thể bao gồm cả san hô.[15] Loài này có thể sống đơn độc hoặc hợp thành đàn (khoảng 30 cá thể).[1] Cá trưởng thành bơi theo cặp vào thời điểm sinh sản.[11]

Thương mại sửa

H. varius được đánh bắt để xuất khẩu trong hoạt động thương mại cá cảnh.[14]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d Rocha, L. A.; Allen, G.; Myers, R. & Pratchett, M. (2010). Heniochus varius. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165652A6081573. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165652A6081573.en. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Acanthuriformes (part 1): Families Lobotidae, Pomacanthidae, Drepaneidae and Chaetodontidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2022.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Taurichthys varius. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2022.
  4. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  5. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Nguyễn Văn Long (2013). “Nguồn lợi cá rạn san hô vùng biển ven bờ Phú Yên”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 13 (1): 31–40. ISSN 1859-3097.
  7. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  8. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  9. ^ Astakhov, D. A. (2010). “Annotated list of species of the family Chaetodontidae (Actinopterygii, Perciformes) from Nha Trang Bay (South China Sea, Central Vietnam)” (PDF). Journal of Ichthyology. 50 (10): 914–931. doi:10.1134/S0032945210100024. ISSN 1555-6425.
  10. ^ Astakhov, D. A.; Savinkin, O. V.; Ponomarev, S. A.; Phuong, Lai Duy; Thu, Dao Duy (2016). “Preliminary annotated list of species of the family Chaetodontidae (Actinopterygii) from Ly Son Islands (South China Sea, Central Vietnam)” (PDF). Journal of Ichthyology. 56 (1): 154–158. doi:10.1134/S003294521601001X. ISSN 1555-6425.
  11. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Heniochus varius trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  12. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 235. ISBN 978-0824818951.
  13. ^ Heniochus varius Chaetodontidae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2022.
  14. ^ a b R. Pyle (2001). “Chaetodontidae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3264. ISBN 978-9251045879.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  15. ^ Cole, Andrew; Pratchett, Morgan; Jones, Geoffrey (2008). “Diversity and functional importance of coral-feeding fishes on tropical coral reefs” (PDF). Fish and Fisheries. 9: 286–307. doi:10.1111/j.1467-2979.2008.00290.x.