I-14 là một tàu ngầm lớp Type A (巡潜甲型潜水艦 Junsen Kō-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được thiết kế như một tàu sân bay ngầm, nó nhập biên chế vào tháng 3 1944 và đầu hàng vào tháng 8 năm đó. I-14 bị đánh chìm như một mục tiêu vào tháng 5, 1946.

I-14 (bên phải), cạnh USS Proteus (bìa trái) và I-401 ngày 29 tháng 8, 1945.
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 5091
Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn 15 tháng 8, 1943
Hạ thủy 14 tháng 3, 1944
Nhập biên chế 14 tháng 3, 1945
Số phận Đầu hàng, 27 tháng 8, 1945
Xóa đăng bạ 15 tháng 9, 1945
Số phận Đánh chìm như mục tiêu, 28 tháng 5, 1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type AM
Trọng tải choán nước
  • 3.661 tấn (3.603 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 4.838 tấn (4.762 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in) chung [1]
Sườn ngang 11,7 m (38 ft 5 in)[1]
Mớn nước 5,9 m (19 ft 4 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 4.400 bhp (3.300 kW) (diesel)[1]
  • 600 hp (450 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 21.000 nmi (39.000 km; 24.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 108
Vũ khí
Máy bay mang theo 2 × thủy phi cơ Aichi M6A (Seiran)
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Những phân lớp Type A1Type A2 dẫn trước đều là những tàu sân bay ngầm, có thể vận hành một thủy phi cơ trinh sát đồng thời được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm. Type AM là một phiên bản của Type A2, nhưng các thiết bị chỉ huy được thay thế bằng hầm chứa máy bay lớn hơn, đủ chỗ mang hai thủy phi cơ[3] Chúng có trọng lượng choán nước 3.661 tấn (3.603 tấn Anh) khi nổi và 4.838 tấn (4.762 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in), mạn tàu rộng 11,7 m (38 ft 5 in) và mớn nước sâu 5,9 m (19 ft 4 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 108 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type AM trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.22 Model 10 công suất 2.200 mã lực phanh (1.641 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 300 mã lực (224 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 16,75 hải lý trên giờ (31,02 km/h; 19,28 mph) và 5,5 hải lý trên giờ (10,2 km/h; 6,3 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động 21.000 hải lý (39.000 km; 24.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

Type AM có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 12 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in) đặt phía sau tháp chỉ huy,[1][2] và hai khẩu đội pháo phòng không 25 mm Type 96 ba nòng cùng một khẩu nòng đơn.[6] Hầm chứa máy bay được mở rộng để chứa hai thủy phi cơ ném bom Aichi M6A1 Seiran, máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, giúp máy bay tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên. Hai cần cẩu xếp lại được bố trí trên boong phía trước dùng để thu hồi máy bay.[6]

Chế tạo

sửa

I-14 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 5091 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 18 tháng 5, 1943.[7][8] Nó được đổi tên thành I-14[7][8] đồng thời được hạ thủy cùng vào ngày rồi được hạ thủy vào ngày 14 tháng 3, 1944,[7][8] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 14 tháng 3, 1945,[7][8] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Shimizu Tsuruzo.[7]

Lịch sử hoạt động

sửa

Vào lúc nhập biên chế, I-14 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Sasebo[8] và được điều động về Đội tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[8] Nó rời Kobe vào ngày 14 tháng 3, 1945 để đi sang Kure,[8] đến nơi vào ngày hôm sau.[8] Nó đang hiện diện tại Kure khi Lực lượng Đặc nhiệm 58 thuộc Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ tung ra đợt không kích xuống căn cứ này vào ngày 19 tháng 3.[9] Khoảng 240 máy bay xuất phát từ các tàu sân bay USS Essex, USS Intrepid, USS Hornet, USS Wasp, USS Hancock, USS BenningtonUSS Belleau Wood đã tham gia cuộc tấn công, nhưng I-14 đã thoát được mà không bị hư hại.[8]

Sau khi Không Lực 20 Hoa Kỳ tiến hành cuộc ném bom hàng loạt quy mô lớn xuống Tokyo vào đêm 9-10 tháng 3, Bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội đề xuất một chiến dịch ném bom trả đủa xuống San Francisco, California bởi các thủy phi cơ Aichi M6A1 Seiran xuất phát từ các tàu ngầm thuộc Đội tàu ngầm 1. Tuy nhiên vào tháng 4, Phó Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Phó đô đốc Jisaburō Ozawa, đã từ chối đề xuất này.[9]

Vào cuối tháng 5, I-14 cùng các tàu ngầm khác thuộc Đội tàu ngầm 1 (I-13, I-400I-401) được trang bị ống hơi.[8] Đến ngày 27 tháng 5, I-13I-14 rời Kure để đi sang căn cứ hải quân Chikai (nay là Jinhae-gu), Triều Tiên để tiếp nhiên liệu,[8] rồi quay trở về Nhật Bản, đi đến vịnh Nanao gần Takaoka tại bờ biển phía Tây Honshū vào ngày 2 tháng 6.[9][10]

Chiến dịch kênh đào Panama

sửa

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type AM”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ Layman & McLaughlin (1991), tr. 176.
  4. ^ Bagnasco (1944), tr. 188.
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 110.
  7. ^ a b c d e “I-14 ex No-5091”. ijnsubsite.info. 2018. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f g h i j k Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (29 tháng 7 năm 2019). “IJN Submarine I-14: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ a b c Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 11 năm 2016). “IJN Submarine I-13: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2021.
  10. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (12 tháng 3 năm 2016). “IJN Submarine I-400: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2020.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Layman, R.D. & McLaughlin, Stephen (1991). The Hybrid Warship:The Amalgamation of Big Guns and Aircraft. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-555-1.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa