I-13 là một tàu ngầm lớp Type A (巡潜甲型潜水艦 Junsen Kō-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được thiết kế như một tàu sân bay ngầm, nó nhập biên chế năm 1944, và bị máy bay từ tàu sân bay hộ tống USS Anzio (CVE-57) phối hợp cùng tàu hộ tống khu trục USS Lawrence C. Taylor (DE-415) đánh chìm về phía Đông Yokosuka vào ngày 16 tháng 7, 1945.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 621
Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn 4 tháng 2, 1943
Hạ thủy 30 tháng 11, 1943
Nhập biên chế 16 tháng 12, 1944
Số phận Bị máy bay và tàu chiến Hoa Kỳ đánh chìm phía Tây Yokosuka, 16 tháng 7, 1945
Xóa đăng bạ 15 tháng 9, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type AM
Trọng tải choán nước
  • 3.661 tấn (3.603 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 4.838 tấn (4.762 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in) chung [1]
Sườn ngang 11,7 m (38 ft 5 in)[1]
Mớn nước 5,9 m (19 ft 4 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 4.400 bhp (3.300 kW) (diesel)[1]
  • 600 hp (450 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 21.000 nmi (39.000 km; 24.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 108
Vũ khí
Máy bay mang theo 2 × thủy phi cơ Aichi M6A (Seiran)
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Những phân lớp Type A1Type A2 dẫn trước đều là những tàu sân bay ngầm, có thể vận hành một thủy phi cơ trinh sát đồng thời được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm. Type AM là một phiên bản của Type A2, nhưng các thiết bị chỉ huy được thay thế bằng hầm chứa máy bay lớn hơn, đủ chỗ mang hai thủy phi cơ[3] Chúng có trọng lượng choán nước 3.661 tấn (3.603 tấn Anh) khi nổi và 4.838 tấn (4.762 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in), mạn tàu rộng 11,7 m (38 ft 5 in) và mớn nước sâu 5,9 m (19 ft 4 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 108 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type AM trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.22 Model 10 công suất 2.200 mã lực phanh (1.641 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 300 mã lực (224 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 16,75 hải lý trên giờ (31,02 km/h; 19,28 mph) và 5,5 hải lý trên giờ (10,2 km/h; 6,3 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động 21.000 hải lý (39.000 km; 24.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

Type AM có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 12 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in) đặt phía sau tháp chỉ huy,[1][2] và hai khẩu đội pháo phòng không 25 mm Type 96 ba nòng cùng một khẩu nòng đơn.[6] Hầm chứa máy bay được mở rộng để chứa hai thủy phi cơ ném bom Aichi M6A1 Seiran, máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, giúp máy bay tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên. Hai cần cẩu xếp lại được bố trí trên boong phía trước dùng để thu hồi máy bay.[6]

Chế tạo

sửa

I-13 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 621 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 4 tháng 2, 1943.[7][8] Nó được đổi tên thành I-13 vào ngày 1 tháng 10, 1943,[7][8] rồi được hạ thủy vào ngày 30 tháng 11, 1943,[7][8] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 16 tháng 12, 1944,[7][8] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Ohashi Katsuo.[7]

Lịch sử hoạt động

sửa

Vào lúc nhập biên chế, I-13 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Sasebo[8] và được điều động về Đội tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[8] Nó rời Kobe vào ngày 16 tháng 12, 1944 để đi sang Kure,[8] đến nơi vào ngày hôm sau.[8] Nó bắt đầu thực hành huấn luyện cùng Hải đội Tàu ngầm 11, bao gồm các tàu ngầm I-400 và sau này có cả I-401 tại khu vực phía Tây biển nội địa Seto, trong tháng 1, 1945.[8] Vào ngày 19 tháng 1, I-13 phục vụ như mục tiêu thực hành chống tàu ngầm cho các tàu khu trục KamikazeNokaze.[8]

I-13 đang hiện diện tại Kure khi Lực lượng Đặc nhiệm 58 thuộc Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ tung ra đợt không kích xuống căn cứ này vào ngày 19 tháng 3.[8] Khoảng 240 máy bay xuất phát từ các tàu sân bay USS Essex, USS Intrepid, USS Hornet, USS Wasp, USS Hancock, USS BenningtonUSS Belleau Wood đã tham gia cuộc tấn công, nhưng I-13 đã thoát được mà không bị hư hại.[8]

Sau khi Không Lực 20 Hoa Kỳ tiến hành cuộc ném bom hàng loạt quy mô lớn xuống Tokyo vào đêm 9-10 tháng 3, Bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội đề xuất một chiến dịch ném bom trả đũa xuống San Francisco, California bởi các thủy phi cơ Aichi M6A1 Seiran xuất phát từ các tàu ngầm thuộc Đội tàu ngầm 1. Tuy nhiên vào tháng 4, Phó Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Phó đô đốc Jisaburō Ozawa, đã từ chối đề xuất này.[8]

Vào cuối tháng 5, I-13 cùng các tàu ngầm khác thuộc Đội tàu ngầm 1 (I-14, I-400I-401) được trang bị ống hơi. [8] Đến ngày 27 tháng 5, I-14 cùng với I-13 rời Kure để đi sang căn cứ hải quân Chikai (nay là Jinhae-gu), Triều Tiên để tiếp nhiên liệu,[8] rồi quay trở về Nhật Bản, đi đến vịnh Nanao gần Takaoka tại bờ biển phía Tây Honshū vào ngày 2 tháng 6.[8][9]

Chiến dịch kênh đào Panama

sửa

Bị mất

sửa

Vào ngày 16 tháng 7, lúc 07 giờ 47 phút, một máy bay TBM-3 Avenger thuộc Liên đội Hỗn hợp VC-13 của tàu sân bay hộ tống USS Anzio (CVE-57) đã phát hiện qua radar một tàu ngầm đang đi trên mặt nước ở Thái Bình Dương, tại vị trí khoảng 550 nmi (1.020 km) về phía Đông Yokosuka.[8] Chiếc Avenger đã bắn phá mục tiêu bằng hỏa lực súng máyrocket HVAR,[8] buộc chiếc tàu ngầm phải lặn xuống nhưng để lại một vệt dầu trên mặt biển.[8] Chiếc Avenger thả hai quả mìn sâu tấn công, rồi thả thêm một phao sonar và một ngư lôi dò âm Mark 24 FIDO.[8] Thêm hai chiếc Avenger thuộc Liên đội VC-13 xuất phát từ Anzio bay đến thay phiên, thả thêm phao sonar và ngư lôi FIDO.[8] Những chiếc Avenger sau đó dẫn đường cho tàu hộ tống khu trục USS Lawrence C. Taylor (DE-415) đến địa điểm một vệt dầu loang lớn, làm bộc lộ vị trí chiếc tàu ngầm.[8] Lúc 11 giờ 40 phút, chiếc tàu hộ tống bắn một loạt 24 quả đạn súng cối chống ngầm Hedgehog, đánh chìm chiếc tàu ngầm, nhiều khả năng là I-13, tại tọa độ 34°28′B 150°55′Đ / 34,467°B 150,917°Đ / 34.467; 150.917.[8][10]

Đến 10 giờ 33 phút ngày 31 tháng 7, trinh sát vô tuyến tình báo Hoa Kỳ chặn được bức điện của Hải quân Nhật cho thấy họ mất liên lạc với I-13 kể từ khi nó rời Ōminato vào ngày 11 tháng 7, và không rõ tung tích.[8] Đến ngày 1 tháng 8, Hải quân Nhật Bản công bố I-13 có thể đã bị mất với tổn thất nhân mạng toàn bộ tại khu vực Truk.[8] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 15 tháng 9, 1945.[8][7] Tổn thất toàn bộ 140 thành viên thủy thủ đoàn của I-13 là tổn thất nhân mạng lớn nhất đối với một tàu ngầm Nhật trong Thế Chiến II.[8]

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type AM”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ Layman & McLaughlin (1991), tr. 176.
  4. ^ Bagnasco (1944), tr. 188.
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 110.
  7. ^ a b c d e f “I-13 ex No-621”. ijnsubsite.info. 2018. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (29 tháng 7 năm 2019). “IJN Submarine I-13: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (12 tháng 3 năm 2016). “IJN Submarine I-400: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2020.
  10. ^ Boyd & Yoshida (2002), tr. 209.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Layman, R.D. & McLaughlin, Stephen (1991). The Hybrid Warship:The Amalgamation of Big Guns and Aircraft. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-555-1.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa