I-41 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt động tiếp liệu trong khuôn khổ Chiến dịch New Guinea, trước khi được điều động đối phó các cuộc đổ bộ lên MarianaPhilippines. I-41 bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS Lawrence C. TaylorUSS Melvin R. Nawman phối hợp cùng máy bay từ tàu sân bay hộ tống USS Anzio đánh chìm trong biển Philippine vào ngày 18 tháng 11, 1944.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 371
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure
Đặt lườn 18 tháng 3, 1942
Đổi tên I-41, 20 tháng 8, 1942
Hạ thủy 10 tháng 11, 1942
Hoàn thành 18 tháng 9, 1943
Nhập biên chế 18 tháng 9, 1943
Xóa đăng bạ 2 tháng 12, 1944
Số phận Bị các tàu hộ tống khu trục USS Lawrence C. TaylorUSS Melvin R. Nawman đánh chìm trong biển Philippine, 18 tháng 11, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B2
Trọng tải choán nước
  • 2.666 tấn (2.624 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.759 tấn (3.700 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,2 m (17 ft 1 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 11.000 bhp (8.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B Cải tiến 1 (lớp I-40) (còn gọi là Type B2) được cải tiến từ Type B1 dẫn trước, có trọng lượng hơi lớn hơn và trang bị động cơ diesel có thiết kế đơn giản hơn nhằm thúc đẩy việc chế tạo.[1] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B2 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 10 công suất 5.500 mã lực phanh (4.101 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,5 hải lý trên giờ (43,5 km/h; 27,0 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B2 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B2 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-41 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 371 tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure, Hiroshima vào ngày 18 tháng 3, 1942.[6][7] Nó được đổi tên thành I-41 vào ngày 20 tháng 8, 1942,[6][7] rồi được hạ thủy vào ngày 10 tháng 11, 1942.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 18 tháng 9, 1943,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Yoshimatsu Tamori.[6]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-41 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka, và được phân về Hải đội Tàu ngầm 11 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội để chạy thử máy và huấn luyện.[6][7] Sau khi hoàn tất việc thử máy và huấn luyện, nó được điều về Đội tàu ngầm 15 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trong thành phần Đệ Lục hạm đội từ ngày 15 tháng 12, 1943.[6][7] Chiếc tàu ngầm khởi hành từ Yokosuka vào ngày 29 tháng 12, để đi sang khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, đi đến căn cứ Truk thuộc quần đảo Caroline vào ngày 1 tháng 1, 1944.[7]

Chiến dịch New Guinea

sửa

Chuẩn bị cho nhiệm vụ vận chuyển hành tiếp liệu đến New Guinea nhằm hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đang chiến đấu tại đây trong khuôn khổ Chiến dịch New Guinea, I-41 được tháo dỡ thủy phi cơ, khẩu hải pháo trên boong tàu cùng tất cả ngư lôi dự trữ.[7] Nó được đặt làm soái hạm của Đội tàu ngầm 15 vào ngày 10 tháng 1, rồi khởi hành từ Truk năm ngày sau đó để đi sang căn cứ Rabaul trên đảo New Britain.[7] Trên đường đi, Hải đội Tàu ngầm 1 được giải thể, nên chiếc tàu ngầm được phối thuộc trực tiếp cùng Đệ Lục hạm đội.[6][7] Sau khi đi đến Rabaul vào ngày 19 tháng 1, nó chất hàng tiếp liệu lên tàu, rồi lên đường bốn ngày sau đó cho một chuyến đi tiếp liệu sang Sarmi, New Guinea, đến nơi vào ngày 25 tháng 1.[7] Chiếc tàu ngầm cho chất dỡ hàng hóa rồi lên đường ngay cho chuyến quay trở về, về đến Rabaul vào ngày 27 tháng 1.[7]

Bị mất

sửa

Trong biển Philippine ở vị trí 250 nmi (460 km) về phía Đông đảo Samar, Philippines, tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Anzio thuộc Đội đặc nhiệm 30.7 nhận được cảnh báo nhờ giải mã tình báo tín hiệu, về sự hiện diện của một tàu ngầm đối phương trong khu vực.[7] Một máy bay TBF Avenger tuần tra chống tàu ngầm xuất phát từ Anzio đã phát hiện một tàu ngầm đang di chuyển trên mặt biển qua radar lúc khoảng 03 giờ 03 phút ngày 18 tháng 11, đang ẩn nấp trong một cơn mưa giông.[7] Chiếc Avenger thả pháo sáng đánh dấu vị trí chiếc tàu ngầm, nhưng sau đó mất dấu mục tiêu.[7] Một chiếc Avenger thứ hai tham gia vào việc truy tìm nhưng không có kết quả.[7]

Đến 04 giờ 17 phút, các tàu hộ tống khu trục USS Lawrence C. TaylorUSS Melvin R. Nawman đi đến hiện trường.[7] Lúc 06 giờ 05 phút, Lawrence C. Taylor tấn công với hai loạt súng cối chống ngầm Hedgehog, nhưng trượt khỏi mục tiêu.[7] Đến 06 giờ 16 phút, Melvin R. Nawman tung ra loạt Hedgehog của nó nhưng vẫn không trúng đích.[7] Sau khi Lawrence C. Taylor bắn loạt Hedgehog thứ ba lúc 06 giờ 30 phút, nó nghe thấy ba tiếng nổ dưới nước, rồi tiếp nối bởi một vụ nổ dữ dội.[7] Không lâu sau đó dầu diesel cùng nhiều mảnh vỡ trồi lên mặt nước, xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị phá hủy, nhiều khả năng là chiếc I-41, tại tọa độ 12°44′B 130°42′Đ / 12,733°B 130,7°Đ / 12.733; 130.700.[7]

Vào ngày 2 tháng 12, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-41 có thể đã bị mất với tổn thất toàn bộ 111 thành viên trên tàu tại khu vực biển Philippine.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.[6][7]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t “Type B2”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g h i “I-41 ex No-371”. ijnsubsite.info. 16 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-41: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Jentschura, Hansgeorg; Jung, Dieter; Mickel, Peter (1977). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 9780870218934.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa