Mirolabrichthys tuka

loài cá
(Đổi hướng từ Pseudanthias tuka)

Mirolabrichthys tuka là một loài cá biển thuộc chi Mirolabrichthys trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1927.

Mirolabrichthys tuka
Cá đực
Cá cái
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Anthiadinae
Chi (genus)Mirolabrichthys
Loài (species)M. tuka
Danh pháp hai phần
Mirolabrichthys tuka
Herre & Montalban, 1927
Danh pháp đồng nghĩa
  • Pseudanthias tuka (Herre & Montalban, 1927)

Từ nguyên sửa

Từ định danh tuka trong tiếng Tagalog mang nghĩa là "mỏ", hàm ý đề cập đến việc chóp môi nhọn và dày thịt ở loài cá này.[2]

Phân loại học sửa

M. tuka trước đây được xếp vào chi Pseudanthias, nhưng theo kết quả phân tích dữ liệu hình tháiphân tử mới đây vào đầu năm 2022 thì loài này được chuyển lại sang chi ban đầu là Mirolabrichthys.[3][4]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

Ấn Độ Dương, M. tuka chỉ được biết đến tại Mauritiusbãi cạn Rowley; còn ở Tây Thái Bình Dương, loài này được phân bố tập trung ở khu vực Tam giác San Hô, xa về phía đông đến Palau, giới hạn phía nam đến rạn san hô Great Barrier, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (miền nam Nhật Bản).[1]

M. tuka cũng được biết đến ở vùng bờ biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[5]

M. tuka thường hợp thành đàn lớn trên các rạn san hôthềm lục địa, độ sâu khoảng từ 2 đến 40 m.[6]

Mô tả sửa

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. tuka là 12 cm.[6]

Môi trên của cá đực dày và nhọn. Cá đực và cá cái đều có màu tím hồng với một sọc màu hồng cam từ mõm băng qua mắt hướng xuống gốc vây ngực. Cá cái có thêm một dải sọc vàng dọc lưng lan rộng đến thùy đuôi trên, thùy dưới cũng có dải vàng. Cá đực có nửa dưới đầu màu vàng với vệt màu tía dọc gốc vây lưng. Vây bụng dài ở cả hai giới, đặc biệt là cá đực.[7]

Mirolabrichthys pascalus cũng có màu tím như M. tuka, nhưng vệt tía ở gốc vây lưng của M. tuka được thay bằng vệt đỏ ở gần rìa của M. pascalus, và M. pascalus đực không có màu vàng dưới đầu như M. tuka.

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 15–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số vảy đường bên: 45–49.[7]

Sinh thái học sửa

Thức ăn của M. tuka là các loài động vật phù du và trứng cá.[6]

Thương mại sửa

M. tuka được đánh bắt trong ngành thương mại cá cảnh.[1]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c Williams, J. T.; Lawrence, A. & Myers, R. (2016). Pseudanthias tuka. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T69591878A69592819. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T69591878A69592819.en. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei: Family Serranidae (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2022.
  3. ^ Gill, Anthony C. (2022). “Revised definitions of the anthiadine fish genera Mirolabrichthys Herre and Nemanthias Smith, with description of a new genus (Teleostei: Serranidae)”. Zootaxa. 5092 (1): 41–66. doi:10.11646/zootaxa.5092.1.2. ISSN 1175-5334. PMID 35391222.
  4. ^ Gay, Jeremy (20 tháng 1 năm 2022). “Pyronotanthias, Nemanthias and Mirolabrichthys help to Sort Out the 'Classic' Anthias Species”. Reef Builders. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2022.
  5. ^ Trần Công Thịnh; Võ Văn Quang; Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Phi Uy Vũ; Trần Thị Hồng Hoa (2015). “Thành phần loài mẫu vật cá Mú (họ Serranidae) lưu trữ ở Bảo tàng Hải dương học” (PDF). Báo cáo khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật (Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 6): 327–333. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Pseudanthias tuka trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  7. ^ a b Randall, John E.; Allen, Gerald Robert; Steene, Roger C. (1998). Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Đại học Hawaii. tr. 98. ISBN 978-0-8248-1895-1.