Quách Anh (13351403) là một danh tướng và khai quốc công thần nhà Minh. Theo Chu Nguyên Chương, ông trải qua hơn 500 trận chiến lớn nhỏ, từng cùng với Từ ĐạtThường Ngộ Xuân đánh bại Trần Hữu LượngTrương Sĩ Thành, được ban tước Hầu.

Quách Anh
郭英
Thụy hiệuUy Tương
Binh nghiệp
Cấp bậcthống tướng
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
1335
Quê quán
huyện Lâm Hoài
Mất
Thụy hiệu
Uy Tương
Ngày mất
1403
Giới tínhnam
Gia quyến
Thân phụ
Quách Sơn Phủ
Anh chị em
Quách Ninh phi, Guo Decheng
Hậu duệ
Quách Trấn, Quách Minh, Quách Kĩ
Quốc tịchnhà Minh

Trong chiến dịch Tĩnh Nan, Quách Anh theo quân triều đình chống lại Yên vương Chu Đệ nhưng bất thành. Chu Đệ lên ngôi cho bãi chức ông, phải trở về quê sinh sống, được tặng làm Doanh Quốc công (营国公).

Cuộc đời

sửa

Quách Anh là con trai của Quách Sơn Phủ (郭山甫), là người biết xem tướng, quê ở Hào Châu (nay là huyện Phượng Dương, tỉnh An Huy). Quách Anh còn một người anh là Quách Hưng (郭興) cũng một tướng lĩnh theo hầu Chu Nguyên Chương, một người em gái được gả làm thiếp cho Nguyên Chương là Quách Ninh phi. Nhận thấy Nguyên Chương là người có số phú quý, Sơn Phủ đã gửi các con ông theo hầu.[1]

Thời kỳ Nguyên mạt

sửa

Năm Chí Chính thứ 14 (1354) triều Nguyên Huệ Tông, Quách Anh theo Nguyên Chương tấn công Định Viễn, sau đó đánh hạ Trừ Châu, Hòa Châu (thuộc tỉnh An Huy ngày nay), lập nhiều chiến công trong trận hồ Bà Dương.[2]

Năm Chí Chính thứ 24 (1364), Quách Anh tấn công Vũ Xương rồi Nhạc Châu, đánh bại quân tiếp viện, chiếm được Lư Châu (Hợp Phì ngày nay) và Tương Dương, được phong Kiêu kỵ vệ thiên hộ (骁骑卫千户). Sau khi hạ Hoài An, Hào Châu và An Phong, Quách Anh được thăng làm Chỉ huy thiêm sự (指挥佥事).[2]

Năm Chí Chính thứ 27 (1367), Quách Anh và Từ Đạt đi chinh phạt Trung Nguyên, tấn công Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi, được thăng Chỉ huy Phó sứ (指挥副使). Đến Định Tây, giết hơn 2000 quân Nguyên, ông được thăng tiếp làm Đô chỉ huy sứ.[3]

Thời kỳ Hồng Vũ

sửa

Vào năm Hồng Vũ thứ 9 (1376), Quách Anh được chuyển đến trấn giữ Bắc Kinh, năm thứ 13 hồi kinh, phong làm Tiền quân Đô đốc phủ.[3]

Năm thứ 14 (1381), Quách Anh cùng Phó Hữu Đức tấn công Vân Nam, tận diệt tàn dư quân Nguyên. Lúc bấy giờ, trời mưa nhiều ngày, nước sông dâng cao, Quách Anh cho đốn cây làm thuyền, ban đêm vượt sông, rạng sáng thì đến được doanh trại quân Nguyên, quân Nguyên không kịp trở tay. Vào năm thứ 16 (1383), Hữu Đức và Quách Anh một lần nữa vượt sông Kim Sa bình định Nguy Sơn và Đặng Xuyên.[4]

Năm thứ 17 (1384), Quách Anh được ban tước Vũ Định hầu (武定侯), nhận 2.500 thạch lương thực. Sang năm sau, ông được phong làm Tĩnh hải tướng quân (靖海将军) và trấn giữ Liêu Đông. Năm thứ 20, Quách Anh cùng tướng Phùng Thăng tới Kim Sơn, tướng của Bắc Nguyên là Nạp Cáp Xúy đầu hàng. Ông còn theo Lam Ngọc trong trận hồ Buir, sau khi về triều thì được ban thưởng rất hậu hĩnh.[5]

Thời kỳ Kiến Văn

sửa

Dưới thời Kiến Văn, Quách Anh tham gia chiến dịch Tĩnh Nan cùng với Lý Cảnh Long. Sau khi trận chiến kết thúc, Quách Anh bị cách bỏ hết chức tước và trở về quê. Vào năm Vĩnh Lạc thứ nhất (1403), Quách Anh mất ở tuổi 69, được tặng làm Doanh Quốc công (营国公), thụyThành Tương (威襄). Quách Anh là người trung thành tận tụy, thông thạo sử sách, kỷ luật nghiêm ngặt.[6] Thời Gia Tĩnh năm thứ 16 (1537), hợp thờ Thái miếu.

Gia quyến

sửa

Quách Anh có 12 người con trai và 9 con gái,[7] tuy nhiên những người con trai đều là do thứ thất sinh ra. Có thể kể đến một số người sau:

  • Quách Trấn (郭镇), lấy Vĩnh Gia Trinh Ý Công chúa, hoàng nữ thứ 12 của Minh Thái Tổ, được phong Phò mã đô úy.
    • Quách Trân, con trai của phò mã và công chúa. Thời Tuyên Đức, công chúa xin lập Trân làm thừa tự cho dòng họ Quách.[8]
  • Quách Minh (郭铭), nhậm chức Điển bảo, tập tước Vũ Định hầu (武定侯).
  • Quách Kỹ (郭锜)
    • Quách Ái, nổi tiếng với tài văn thơ, được Minh Tuyên Tông nạp làm thiếp, vào cung chưa tròn tháng thì qua đời.
  • Liêu Vương phi Quách thị, chánh thất của Liêu Giản vương Chu Thực, hoàng tử thứ 15 của Minh Thái Tổ.
  • Dĩnh Vương phi Quách thị, chánh thất của Dĩnh Tĩnh vương Chu Đống, hoàng tử thứ 24 của Minh Thái Tổ.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Minh sử, quyển 113: "宁妃郭氏,濠人郭山甫女。山甫善相人。太祖微时过其家,山甫相之,大惊曰:"公相贵不可言。"因谓诸子兴、英曰:"吾相汝曹皆可封侯者以此。"亟遣从渡江,并遣妃侍太祖。后封宁妃。李淑妃薨,妃摄六宫事。山甫累赠营国公,兴、英皆以功封侯,自有传。"
  2. ^ a b Minh sử, quyển 130: "郭英,巩昌侯兴弟也。年十八,与兴同事太祖。亲信,令值宿帐中,呼为"郭四"。从克滁、和、采石、太平,征陈友谅,战鄱阳湖,皆与有功。从征武昌,陈氏骁将陈同佥持槊突入,太祖呼英杀之,衣以战袍。攻岳州,败其援兵,还克庐州、襄阳。授骁骑卫千户。克淮安、濠州、安丰,进指挥佥事。"
  3. ^ a b Minh sử, quyển 130: "从徐达定中原,又从常遇春攻太原,走扩廓,下兴州、大同。至沙净州渡河。取西安、凤翔、巩昌、庆阳,追败驾宗哲于乱山,迁本卫指挥副使。进克定西,讨察罕脑儿。克登宁州,斩首二千级,进河南都指挥使。时英女弟为宁妃,英将赴镇,命妃饯英于第,赐白金二十罂,厩马二十匹。在镇绥辑流亡,申明约束,境内大治。九年移镇北平。十三年召还,进前军都督府佥事。"
  4. ^ Minh sử, quyển 130: "十四年,从颍川侯傅友德征云南,与陈桓、胡海分道进攻赤水河路。久雨,河水暴涨。英斩木为筏,乘夜济。比晓,抵贼营,贼大惊溃。擒乌撒并阿容等。攻克曲靖、陆凉、越州、关索岭、椅子寨。降大理、金齿、广南,平诸山寨。十六年复从友德平蒙化、邓川,济金沙,取北胜、丽江。前后斩首一万三千余级,生擒二千余人,收精甲数万,船千余艘。"
  5. ^ Minh sử, quyển 130: "十八年,加靖海将军,镇守辽东。二十年从大将军冯胜出金山,纳哈出降,进征虏右副将军。从蓝玉至捕鱼儿海。师还,赏赉甚厚,遣还乡。"
  6. ^ Minh sử, quyển 130: "靖难后,罢归第。永乐元年卒,年六十七。赠营国公,谥威襄。英孝友,通书史,行师有纪律,以忠谨见亲于太祖。又以宁妃故,恩宠尤渥,诸功臣莫敢望焉。"
  7. ^ Minh sử, quyển 130: "子十二人。镇,尚永嘉公主。铭,辽府典宝。镛,中军右都督。女九人,二为辽郢王妃。女孙为仁宗贵妃,铭出也,以故铭子玹得嗣侯。"
  8. ^ Minh sử, quyển 121: "永嘉公主,母郭惠妃。洪武二十二年下嫁郭鎮,武定侯英子也。英卒,鎮不得嗣。宣德十年,主乞以子珍嗣,語在《英傳》。景泰六年,主薨。世宗即位,元孫勛有寵,為主乞追謚,特賜謚貞懿。"