Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: Sverige [ˈsværjɛ] ( nghe)) chính thức là Vương quốc của Thụy điển (tiếng thụy điển: “Number of persons by foreign/Swedish background and year”. www.statistikdatabasen.scb.se. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018. 2016 Foreign background 2 320 302Konungariket Sverige), là một Scandinavia Bắc âu, nướcBắc Âu. Nó biên giới na Uy ở phía tây và bắc và phần Lan đến phía đông, và kết nối với Đan mạch ở phía tây nam bởi một cầu-đường hầm trên Oresund, một eo biển ở thụy điển-đan mạch biên giới. Tại 450.295 kilômét vuông (173.860 dặm vuông Anh), Thụy điển là bên quốc gia lớn nhất trong liên Minh châu Âu bởi khu vực. Thụy điển có một tổng dân số của 10.2 triệu mà 2,4 triệu có một ngoại nền.[1] Nó có một ít mật độ dân số là 22 người trên kilômét vuông (57/sq mi). Nồng độ cao nhất là ở miền nam của đất nước.

Dân tộc đức đã có người ở Thụy điển kể từ thời tiền sử mới nổi vào lịch sử như các người geat (tiếng thụy điển Götar) và người Thụy điển (Svear) và tạo thành biển, người được gọi là giao về chủ quyền giữa. Miền nam Thụy điển là chủ yếu là nông nghiệp, trong khi miền bắc được rất nhiều rừng. Thụy điển là một phần của địa lý khu vực của Fennoscandia. Các khí hậu là ở chung rất nhẹ cho nó về phía bắc, vĩ độ do để quan trọng hàng hải ảnh hưởng, rằng mặc dù này vẫn còn giữ được ấm áp lục. Hôm nay, các nước có chủ quyền của Thụy điển là một hiếnquốc hội dân chủ, với một vị vua như người đứng đầu nhà nước, giống như người hàng xóm của mình na Uy. Các thành phố vốnStockholm, đó cũng là thành phố lớn nhất nước. Lập pháp quyền lực được trao cho 349-thành viên đơn vị trí địa lý. Quyền hành được thực hiện bởi chính phủ dưới sự chủ trì của thủ tướng. Thụy điển là một đơn nhất bang, đang chia thành 21 quận và 290 thành phố.

Thụy Điển có bốn đạo luật cơ bản (tiếng Thụy Điển: grundlagar) kết hợp với nhau hình thành nên hiến pháp của đất nước, bao gồm : Văn kiện của chính phủ (tiếng Thụy Điển: Regeringsformen), Đạo luật Kế vị (tiếng Thụy Điển: Successionsordningen), Đạo luật về quyền tự do báo chí (“Nuclear Power in Sweden”. World Nuclear Association. tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2010.), Luật Cơ bản về quyền tự do ngôn luận (“Sweden plans to be world's first oil-free economy”.“Sweden plans to be world's first oil-free economy”.).[2][3]


tiếng Thụy Điển: statenKowalski, Oliver. “Ferry to Denmark, Norway, Sweden, Finland, Poland, Baltic, Russia, Germany”. www.ferrylines.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.ISBN 918530510-3“Tåg till Berlin – Berlin Night Express – Nattåg till Berlin InterRail – Snälltåget” (bằng tiếng Thụy Điển). Snälltåget.se.

Thụy Điển là một nhà nước quân chủ lập hiến với Vua Carl XVI Gustaf là người đứng đầu nhà nước, nhưng vai trò của quốc vương chỉ giới hạn trong các chức năng nghi lễ và đại diện. [4] Theo quy định của Văn kiện Chính phủ năm 1974, nhà vua không có bất kỳ quyền lực chính trị chính thức nào.[5][6] Nhà vua là người mở phiên họp Quốc hội hàng năm,  tổ chức Hội đồng Thông tin thường kỳ với Thủ tướng và Chính phủ, chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Tư vấn Ngoại giao (Tiếng Thụy Điển: Utrikesnämnden) và là người tiếp nhận quốc thư của các đại sứ nước ngoài gửi tới Thụy Điển cũng như đóng dấu quốc thư gửi ra nước ngoài.[7][8] Ngoài ra, nhà Vua cũng là người thanh toán chi phí cho những chuyến thăm cấp nhà nước ở nước ngoài và tiếp đón khách nước ngoài với tư cách là chủ nhà. Ngoài những nhiệm vụ chính thức, Vua và những thành viên khác trong gia đình hoàng gia cũng thực hiện một loạt các nhiệm vụ đại diện không chính thức khác cả  ở trong nước và ngoài nước..[9]Wilkinson, Richard; Pickett, Kate (8 tháng 3 năm 2009). “The Spirit Level: Why More Equal Societies Almost Always Do Better” (PDF). www.skogskunskap.se. Department of Health. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2016.

Cơ quan lập pháp là Quốc hội (Riksdag) chỉ có một viện bao gồm 349 nghị sĩ và được bầu 4 năm một lần. Các cuộc tổng tuyển cử được tổ chức bốn năm một lần, vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng chín. Luật pháp có thể được khởi xướng bởi chính phủ hoặc bởi thành viên của Riksdag. Các thành viên của Riksdag được bầu lên theo cơ sở đại diện tỷ lệ cho một nhiệm kỳ bốn năm. Các đạo luật cơ bản chỉ có thể được thay đổi bởi Riksdag“Sweden's Turn Left Could Deal A Blow To European Austerity”.tiếng Thụy Điển: staten

Rosenbad, ở trung Stockholm, đã được chỗ của chính Phủ từ năm 1981.Lỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai

Chính phủ Thụy Điển (Chú thích trống (trợ giúp)Chú thích trống (trợ giúp)) nắm vai trò hành pháp, bao gồm một vị thủ tướng — được bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm bởi Chủ tịch Riksdag (dựa trên một cuộc bỏ phiếu bởi các thành viên của Riksdag) — và các bộ trưởng (In 2007), được bổ nhiệm hoặc bị sa thải tùy thuộc vào quyết định của thủ tướng.[10] Chính phủ là cơ quan hành pháp tối cao và chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình trước Quốc hội.[11]


Error in webarchive template: Check |url= value. Empty.

Cơ quan tư pháp của Thụy Điển hoàn toàn độc lập với Quốc hội, chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước .[12] Vai trò của việc xem xét pháp lý về pháp luật không được thực hiện bởi các tòa án; mà thay vào đó, Hội đồng Pháp luật đưa ra những ý kiến không ràng buộc về tính hợp pháp.“Continued increase in the number of employees in the municipal sector”.“Continued increase in the number of employees in the municipal sector”. Tòa án không bị ràng buộc bởi tiền lệ pháp, mặc dù nó có ảnh hưởng.“SCB: Arbetslösheten minskar i landet”. Sweden.se. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2013.“SCB: Arbetslösheten minskar i landet”. Sweden.se. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2013.

Đảng chính trị và các cuộc bầu cử sửa

Các vị trí địa lý, buồng, tại thời điểm của một cuộc bỏ phiếu, năm 2009

 Đảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển đã đóng một vai trò chủ đạo trong nền chính trị Thụy Điển kể từ năm 1917, thời điểm những người dân chủ xã hội đã khẳng định được sức mạnh của mình và những người cách mạng cánh tả thành lập đảng phái riêng của họ. Kể từ năm 1932 tới nay, hầu hết các chính phủ nắm quyền ở Thụy ĐIển đều chịu sự chi phối của Đảng Dân chủ Xã hội. Trong các cuộc tổng tuyển cử kể từ sau thế chiến II cho tới nay, các đảng phái thiên hữu chỉ có 5 lần đạt đủ số ghế trong Quốc hội để có thể lập thành chính phủ

Trong hơn 50 năm, Thụy Điển chỉ có 5 đảng liên tục nhận được đủ số phiếu bàu để giành được ghế trong Quốc hội - đó là Đảng Dân chủ Xã hội, Đảng Ôn hòa, Đảng Trung tâm, Đảng Nhân dân Tự do và Đảng cánh tả — trước khi Đảng Xanh trở thành đảng thứ 6 có ghế trong Quốc hội sau cuộc bầu cử năm 1988. Trong cuộc bầu cử năm 1991, trong khi Đảng Xanh bị mất ghế, thì lại có hai đảng mới giành được ghế lần đầu tiên: Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo và Đảng Dân chủ Mới. Cuộc bầu cử năm 1994 đã chứng kiến sự trở lại của Đảng Xanh và sự sụp đổ của Đảng Dân chủ mới. Mãi cho đến khi cuộc bầu cử vào năm 2010 mới có một đảng thứ tám, đảng Dân chủ Thụy Điển, giành được ghế trong Riksdag.

Các nhà lãnh đạo đảng xếp hàng trước khi bắt đầu cuộc tranh luận trực tiếp trên sóng truyền hình vào ngày 12 tháng chín năm 2014.


[13]

Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2014, 4 đảng trung hữu là Đảng Ôn hòa, Đảng Nhân dân Tự do, Đảng Trung tâm và Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đã tiếp tục tạo thành một liên minh cánh hữu có tên gọi là Liên minh Thụy Điển, với hi vọng có lần thứ ba liên tiếp thắng lợi cuộc bầu cử (Ở hai cuộc bầu cử trước đó, Liên minh này đều đã chiến thắng và thành lập được chính phủ). Ở chiều ngược lại, ba đảng lớn nhất của phe cánh tả (Đảng Dân chủ Xã hội, Đảng Xanh, và Đảng Cánh tả) lại tham gia chiến dịch bầu cử này hoàn toàn độc lập chứ không còn liên minh với nhau như cuộc bầu cử năm 2010. Ngoài ra bên cánh hữu còn có Đảng Dân chủ Thụy Điển là đảng cực hữu, đảng này không lập liên minh với bất kỳ đảng nào khác. Kết quả chung cuộc ba đảng cánh tả lớn nhất đã vượt qua Liên minh Thụy Điển, với cách biệt là 159 ghế và 141 ghế. Đảng Dân chủ Thụy Điển nhận được sự ủng hộ lớn gấp đôi so với cuộc bầu cử trước đó khi giành được 49 ghế còn lại.  Fredrik Reinfeldt, Thủ tướng đương nhiệm thuộc Liên minh Thụy Điển, đã không thể có nhiệm kỳ thứ ba liên tiếp nắm quyền. Vào ngày 3 tháng 10, ông được thay thế bởi Stefan Löfven, người đã thành lập một chính phủ thiểu số gồm đảng Dân chủ Xã hội và Đảng Xanh.Lỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai

Tỉ lệ cử tri đi bầu cử ở Thụy Điển luôn luôn cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù đã có sự suy giảm trong một vài thập kỳ qua, những cuộc bầu cử gần đây đã ghi nhận tỉ lệ cử tri đi bầu ngày càng tăng (80.11% trong năm 2002, 81.99% vào năm 2006, 84.63% trong năm 2010 và 85.81 trong năm 2014.[14] Các chính trị gia Thụy Điển hưởng được sự tin tưởng cao từ các công dân trong những năm 1960. Tuy nhiên, mức độ tin tưởng đó đã giảm dần, và hiện đang ở mức thấp hơn đáng kể so với các nước láng giềng Scandinavia.[15]

Thụy điển là một đơn nhất nước chia thành 21 county hội đồng (landsting) và 290 thành phố (kommuner). Mỗi hội đồng hạt tương ứng với một county (lan) với một số thành phố mỗi quận. County và hội đồng thành phố có vai trò khác nhau và tách trách nhiệm liên quan đến chính quyền địa phương. Chăm sóc sức khỏe, giao thông công cộng và một số tổ chức văn hóa được quản lý bởi county hội đồng. Trường tiểu học trường trung học, nước công cộng tiện ích, rác thải, chăm sóc người cao tuổi và dịch vụ cứu hộ được quản lý bởi những thành phố. Gotland là một trường hợp đặc biệt của một hội đồng hạt chỉ với một thành phố và các chức năng của hội đồng hạt và thành phố được thực hiện bởi cùng một tổ chức.Lỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai

Chính phủ thụy điển đã 21 County Ban Hành chính (“The Constitution”. The Riksdag. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.), đó là trách nhiệm cho khu vực nhà nước quản lý không được giao cho các cơ quan chính phủ hay chính quyền địa phương. Mỗi quận ban hành chính được dẫn dắt bởi một County thống Đốc (Error in webarchive template: Check |url= value. Empty.

) bổ nhiệm cho một thời hạn sáu tháng. Các danh sách của các viên chức cho các quận trải dài trở lại, trong nhiều trường hợp, để 1634 khi các quận được tạo ra bởi Chúa Cao thủ Tướng Đếm Axel Oxenstierna. Chính trách nhiệm của Quận Ban Hành chính là để phối hợp sự phát triển của quận phù hợp với mục tiêu của các vị trí địa lý, và chính Phủ.

Hệ thống tư pháp sửa

Các tòa án được chia thành hai song song và các hệ thống riêng biệt: Các tòa án chung (“Change of Government Council at the Royal Palace of Stockholm”. Royal Court of Sweden. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.) cho tội phạm và dân sự, và chung tòa án hành chính (allmänna förvaltningsdomstolar) cho trường hợp liên quan đến tranh chấp giữa các cá nhân, và các nhà chức trách.[16] Mỗi hệ thống đã ba tầng nơi tầng trên cùng tòa án của các hệ thống thông thường chỉ nghe trường hợp đó có thể trở thành tiền lệ. Cũng có một số của tòa án đặc biệt, mà sẽ nghe một hẹp thiết lập trường hợp, như là đặt bởi luật pháp. Trong khi độc lập trong quyết định của các tòa án này hoạt động như là chia rẽ trong tòa án của tổng hoặc nói chung tòa án hành chính.

 Trong suốt thế kỷ 20, chính sách đối ngoại của Thụy Điển dựa trên nguyên tắc không liên kết trong thời bình và trung lập trong thời chiến..

Nguyên tắc trung lập của Thụy Điển đã bắt nguồn từ thế kỷ 19 khi đất nước này đã không ở trong trạng thái chiến tranh kể từ khi kết thúc chiến dịch chống lại Na Uy vào năm 1814. Trong Thế Chiến II Thụy Điển đứng ngoài cuộc chiến và không gia nhập cả 2 phe Đồng minh cũng như phe Trục. Tuy nhiên sự trung lập của quốc gia này trong Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn còn đang là một chủ đề gây tranh cãi khi mà trong một số trường hợp, Thụy Điển đã cho phép quân đội Đức Quốc xã sử dụng hệ thống đường sắt của họ để vận chuyển quân đội và hàng hóa đặc biệt là quặng sắt từ mỏ ở phía bắc Thụy điển, một nguyên liệu tối quan trọng đối với bộ máy chiến tranh của Đức.[17] Tuy nhiên, Thụy Điển cũng gián tiếp góp phần  bảo vệ Phần Lan trongChiến tranh mùa đông, và đã cho phép quân Đồng minh đào tạo binh lính Na Uy và Đan Mạch ở Thụy Điển sau năm 1943.

Viện đo trong DÂN trong năm 2009. Nguồn: NAY. Như một phần trăm Thụy điển là nhà tài trợ lớn nhất.

Trong những năm đầu cuộc Chiến tranh Lạnh, Thụy Điển kết hợp chính sách không liên kết và một sự tham gia thấp trong các vấn đề quốc tế với chính sách an ninh dựa trên quốc phòng mạnh mẽ. [18] Nhiệm vụ của quân đội Thụy Điển là ngăn chặn mọi cuộc tấn công vào quốc gia này.[19]  Đồng thời, nước này duy trì một mối quan hệ gần gũi không chính thức với khối phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực trao đổi thông tin tình báo. Năm 1952, một chiếc DC-3 của Thụy Điển bị bắn rơi trên Biển Baltic bởi một máy bay phản lực MiG-15 củaLiên Xô. Sau đó một cuộc điều tra đã cho thấy chiếc máy bay này thực sự đã thu thập thông tin cho NATO. [20] Một chiếc máy bay khác, máy bay tìm kiếm và cứu hộ Catalina, được gửi đi vài ngày sau đó và đã bị Liên Xô bắn hạ. Thủ tướng Olof Palme đã có chuyến thăm chính thức tới Cuba trong những năm 1970, trong đó ông lên án chính phủ của Fulgencio Batista và ca ngợi những người cộng sản cách mạng Cuba và Căm-pu-chia trong một bài phát biểu.

Bắt đầu từ cuối những năm 1960, Thụy Điển đã cố gắng đóng một vai trò tích cực hơn, quan trọng hơn và độc lập hơn trong quan hệ quốc tế. Họ đã có những đóng góp đáng kể trong nỗ lực giữ gìn hòa bình quốc tế, đặc biệtl là thông qua Liên Hiệp Quốc, cũng như hỗ trợ cho các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba.

Vào ngày 27 tháng 10 năm 1981, một tàu ngầm lớp Whiskey (U 137) của Liên bang Xô viết bị mắc cạn gần căn cứ hải quân tại Karlskrona ở miền nam Thụy ĐIển. Vụ việc đã gây ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Thụy Điển và Liên Xô. Sau vụ ám sát Olof Palme năm 1986 và sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, Thụy Điển đã thực hiện một chính sách đối ngoại mang tính truyền thống hơn. Tuy nhiên, đất nước vẫn hoạt động tích cực trong các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và duy trì một ngân sách đáng kể dành cho viện trợ nước ngoài.

Từ năm 1995 Thụy Điển đã trở thành một thành viên củaLiên minh châu Âu, và trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới có những biến đổi mới, chính sách đối ngoại của Thụy Điển đã có sự điều chỉnh, qua đó Thụy Điển đóng một vai trò tích cực hơn trong vấn đề hợp tác bảo đảm an ninh trên toàn châu Âu.

Quân sự sửa

Saab JAS 39 Gripen là một máy bay chiến đấu đa năng tiên tiến củaKhông quân Thụy Điển.

Luật pháp được thực thi ở Thụy Điển bởi các co quan của chính phủ. Cảnh sát Thụy Điển là cơ quan của Chính phủ liên quan đến các vấn đề của cảnh sát. Lực Lượng Đặc Nhiệm Quốc Gia là một đơn vị SWAT quốc gia trực thuộc Bộ Cảnh Sát. Trách nhiệm của Cơ quan An ninh Thụy Điển là các hoạt động chống gián điệp, chống khủng bố, bảo vệ hiến pháp và bảo vệ người dân.  

Försvarsmakten (lực lượng vũ trang Thụy Điển) trực thuộc Bộ Quốc phòng Thụy Điển, chịu trách nhiệm về hoạt động trong thời bình của lực lượng vũ trang Thụy Điển. Nhiệm vụ chính của cơ quan là đào tạo và triển khai lực lượng hỗ trợ hòa bình ở nước ngoài, đồng thời duy trì khả năng tập trung dài hạn vào việc bảo vệ Thụy Điển trong trường hợp chiến tranh. Lực lượng vũ trang được chia thành Lục quân, Không quân và Hải quân. Người đứng đầu lực lượng vũ trang là Tư lệnh tối cao (Överbefälhavaren, ÖB), sĩ quan cao cấp nhất trong cả nước. Cho tới năm 1974, nhà vua là Tư lệnh tối cao của quân đội, nhưng trên thực tế trong suốt thế kỷ 20 nhà vua hoàn toàn không nắm vai trò lãnh đạo quân sự

Xe tăng CV90, được sản xuất và sử dụng bởi Thụy Điển

Cho đến thời điểm kết thúc Chiến tranh Lạnh, hầu hết nam giới ở Thụy Điển đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc khi họ đủ tuổi. Đến ngày 1 tháng bảy,năm 2010 Thụy Điển bãi bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự, chuyển sang chế độ nghĩa vụ quân sự tự nguyện.[21][22][23] Điều này khiến cho tổng số quân hiện dịch của lực lượng vũ trang Thụy Điển chỉ còn khoảng 60.000 người. Con số này thua xa những năm 1980 thời điểm trước sự sụp đổ của Liên Xô, với 1,000,000 quân.

Tuy nhiên, ngày 11 tháng mười hai năm 2014, do căng thẳng ở khu vực Baltic, chính phủ Thụy Điển khôi phục lại một phần hệ thống nghĩa vụ quân sự bắt buộc, đào tạo bồi dưỡng[24] Ngày 2 tháng 3 năm 2017 chính phủ Thụy Điển khôi phục lại hoàn toàn chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2018.[25]

Các lực lượng Thụy Điển đã tham gia vào nhưng hoạt động gìn giữ hòa bình tại Cộng hòa Dân chủ Congo, Cyprus, Bosnia và Herzegovina, Kosovo, Liberia, Lebanon, Afghanistan và Chad.

Thụy Điển đứng thứ 7 thế giới về GDP (tổng sản phẩm quốc nội) bình quân đầu người và công dân nước này được hưởng một mức sống rất cao. Kinh tế Thụy Điển là một nềnkinh tế hỗn hợp theo định hướng xuất khẩu. Gỗ, thủy điện và quặng sắt là những nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Thụy Điển. Lĩnh vực kỹ thuật của Thụy Điển chiếm 50% sản lượng và xuất khẩu, trong khi viễn thông, công nghiệp ô tô và các ngành công nghiệp dược phẩm cũng rất quan trọng. Thụy Điển là nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ 9 trên thế giới. Nông nghiệp chiếm 2% tổng GDP và tổng số lao động. Thụy Điển cũng là một trong những nước có tỉ lệ người dân sử dụng điện thoại và truy cập internet cao nhất trên thế giới[26]


Năm 2010, hệ số Gini thu nhập của Thụy Điển thấp thứ ba trong số các nước phát triển: 0,25 - cao hơn một chút so với Nhật BảnĐan Mạch - cho thấy Thụy Điển có sự bất bình đẳng thu nhập ở mức thấp. Tuy nhiên,  hệ số Gini tài sản của Thụy Điển lại lên tới 0,853, cao thứ hai trong các nước phát triển, và cao hơn mức trung bình của châu Âu và Bắc Mỹ, cho thấy sự bất bình đẳng tài sản ở mức khá cao.[27][28] .[29]

Về cơ cấu, nền kinh tế Thụy Điển được đặc trưng bởi một khu vực chế tạo quy mô lớn, tập trung tri thức và định hướng xuất khẩu; các ngành dịch vụ kinh doanh ngày càng phát triển, nhưng quy mô vẫn tương đối nhỏ; và một ngành dịch vụ công lớn theo tiêu chuẩn quốc tế. Các tổ chức lớn, cả về sản xuất và dịch vụ, đều thống trị nền kinh tế Thụy Điển. .[30] Các ngành sản xuất công nghệ cao và trung bình chiếm khoảng 9.9% tổng số GDP.[31]

20 công ty lớn nhất Thụy Điển (tính theo doanh thu) vào năm 2007 là Volvo, Ericsson,Vattenfall, Skanska, Sony Ericsson Mobile Communications AB, Svenska Cellulosa Aktiebolaget, Electrolux, Volvo Personvagnar, TeliaSonera, Sandvik, Scania, ICA, Hennes & Mauritz,IKEA, Nordea, Preem, Atlas Copco, Securitas, Nordstjernan và SKF . Phần lớn các ngành công nghiệp của Thụy Điển thuộc quyền kiểm soát của tư nhân, không giống như nhiều nước phương Tây công nghiệp hóa khác, và hầu hết các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước có tầm quan trọng rất nhỏ.[32]

Mức tăng trưởng kinh tế của Thụy điển, giai đoạn 1996-2006

Ước tính khoảng 4,5 triệu người dân Thụy Điển hiện có việc làm và khoảng một phần ba lực lượng lao động tại Thụy Điển đã hoàn thành giáo dục đại học. Xét về GDP mỗi giờ làm việc, Thụy Điển đứng thứ chín trên thế giới trong năm 2006 với 31 USD, so với 22 USD ở Tây Ban Nha và 35 USD ở Hoa Kỳ... Thụy Điển là nước dẫn đầu thế giới về các khoản trợ cấp hưu trí và các vấn đề về lương hưu là tương đối ít so với một số nước Tây Âu khác .[33] Tỉ lệ thất nghiệp của Thụy Điển vào tháng 11 năm 2015 là ̉6,2%.

Một người lao động điển hình của Thụy Điển sẽ chỉ còn nhận được 40% chi phí lao động của họ sau khi nộp thuế. Tỉ lệ thu thuế trên GDP của Thụy Điển đạt tới 52.3% vào năm 1990Lỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai Nước này phải đối mặt với cuộc khủng hoảng ngân hàng và bất động sản trong hai năm 1990-1991, và do đó đã thông qua cải cách thuế năm 1991 để thực hiện cắt giảm thuế và mở rộng cơ sở thuế theo thời gian.Lỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên saiLỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai Từ năm 1990, tỉ lệ thu thuế trên GDP của Thụy Điển đã giảm, với tổng mức thuế đánh vào nhóm người có thu nhập cao đã giảm nhiều nhất.Lỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai . Trong năm 2010 45,8% GDP của Thụy Điển có được từ việc thu thuế, cao thứ hai trong số các nước OECD, và gần gấp đôi so với tỷ lệ ở Mỹ và Hàn QuốcLỗi chú thích: Thẻ mở <ref> bị hỏng hoặc có tên sai 

Nordstan là một trong những thứ lớn nhất trung tâm mua sắm ở bắc Âu

Thụy Điển là nền kinh tế đứng thứ tư thế giới về tính  cạnh tranh theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2012–2013 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới [34] Thụy Điển là quốc gia hàng đầu trong Chỉ số Kinh tế Xanh toàn cầu năm 2014 (GGEI).[35] Thụy Điển được xếp thứ tư trong Niên giám cạnh tranh thế giới IMD 2013.[36]

Dù đã gia nhập EU, Thụy Điển tiếp tục duy trì đồng tiền riêng của mình, đồng krona Thụy Điển (SEK), do dân Thụy Điển đã chống lại việc đưa euro trở thành đồng tiền chính thức của quốc gia sau một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào năm 2003. Riksbank Thụy Điển - được thành lập năm 1668 là ngân hàng trung ương lâu đời nhất trên thế giới - hiện đang tập trung vào nhiệm vụ ổn định giá với mục tiêu duy trì mức lạm phát ở ngưỡng 2%. Theo khảo sát kinh tế của Thụy Điển năm 2007 thực hiện bởi OECD, từ giữa những năm 1990 Thụy Điển luôn nằm trong số những nước có tỉ lệ lạm phát trung bình thấp nhất châu Âu .[37]

Những đối tác thương mại lớn nhất của Thụy Điển là Đức, Hoa Kỳ, Na Uy, Anh,Đan MạchPhần Lan.


Ghi chú sửa

Tài liệu tham khảo sửa

  1. ^ “Number of persons by foreign/Swedish background and year”. www.statistikdatabasen.scb.se. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018. 2016 Foreign background 2 320 302
  2. ^ “The Constitution”. The Riksdag. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  3. ^ Petersson: pp. 38–40.
  4. ^ “Monarchy: A modern royal family”. Sweden.se. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2013.
  5. ^ “The Instrument of Government”. The Riksdag. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  6. ^ “The Head of State”. Government of Sweden. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  7. ^ “Duties of the Monarch”. Royal Court of Sweden. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  8. ^ “A new government is formed”. The Riksdag. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  9. ^ “Annual Report 2012” (PDF). Royal Court of Sweden. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  10. ^ “Forming a government”. The Riksdag. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  11. ^ “The Instrument of Government (as of 2012)” (PDF). The Riksdag. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  12. ^ “The Swedish courts”. Swedish National Courts Administration. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  13. ^ The Official Website of the Swedish Election Authority. “Val till riksdagen”. Election Authority.
  14. ^ “Röster – Val 2014” (bằng tiếng Thụy Điển). Election Authority. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2016.
  15. ^ Holmberg, Sören (1999). Norris, Pippa (biên tập). Critical Citizens: Global Support for Democratic Government. Oxford University Press. tr. 103–123. ISBN 0-19-829568-5.
  16. ^ “The Swedish courts”. Swedish National Courts Administration. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  17. ^ Nordstrom p. 302: "In fact, the plans were mostly a ruse to establish control of the crucial Norwegian port of Narvik and the iron mines of northern Sweden, which were vitally important to the German war efforts."
  18. ^ As context, according to Edwin Reischauer, "To be neutral you must be ready to be highly militarized, like Switzerland or Sweden." – see Chapin, Emerson (2 tháng 9 năm 1990). “Edwin Reischauer, Diplomat and Scholar, Dies at 79”. The New York Times. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2016.
  19. ^ Nordstrom, p 336: "As a corollary, a security policy based on strong national defences designed to discourage, but not prevent, attack was pursued. For the next several decades, the Swedish poured an annual average of about 5% of GDP into making their defenses credible."
  20. ^ “Cold War Spy Plane Found in Baltic Sea”. National Geographic News. 10 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.
  21. ^ “Värnplikt” [Conscription] (bằng tiếng Thụy Điển). Swedish Armed Forces. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  22. ^ “Allmänna värnplikten skrotas” [General conscription scrapped] (bằng tiếng Thụy Điển). Sveriges Television. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  23. ^ “Military conscription phase out under fire”. The Local. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  24. ^ Försvarsmakten. “Frågor och svar om repetitionsutbildning”. Försvarsmakten.
  25. ^ Regeringskansliet, Regeringen och (2 tháng 3 năm 2017). “Regeringen återaktiverar mönstring och grundutbildning med värnplikt”. Regeringskansliet.
  26. ^ “EUROPE :: SWEDEN”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2016.
  27. ^ “The Real Wealth of Nations: Pathways to Human Development (2010 Human Development Report – see Human Development Statistical Tables)”. United Nations Development Program. 2011. tr. 152–156.
  28. ^ “Global Wealth Databook” (PDF). Credit Suisse (using Statistics Sweden data). 2010. tr. 14–15, 83–86. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  29. ^ Edvinsson, Sören; Malmberg, Gunnar; Häggström Lundevaller, Erling (2011). “Do unequal societies cause death and disease?”. Umeå University. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  30. ^ “Doing Business Abroad – Innovation, Science and Technology”. Infoexport.gc.ca. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  31. ^ “High- and medium-high-technology manufacturing”. Conferenceboard.ca. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2012.
  32. ^ “20 largest companies in Sweden”. Largestcompanies.com. 6 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  33. ^ “Pension Reform in Sweden: Lessons for American Policymakers”. The Heritage Foundation. Bản gốc lưu trữ 13 Tháng Một năm 2010. Truy cập 17 tháng Chín năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  34. ^ “Global Competitiveness Report 2012–2013”. World Economic Forum. 5 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2013.
  35. ^ “2014 Global Green Economy Index” (PDF).
  36. ^ “IMD World Competitiveness Yearbook 2013”. Agenda 21. Imd.ch. 30 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2013.
  37. ^ “Economic survey of Sweden 2007”. Oecd.org. 1 tháng 1 năm 1970. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.

[[Thể loại:Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu]] [[Thể loại:Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu]] [[Thể loại:Quốc gia thành viên Liên minh Địa Trung Hải]] [[Thể loại:Các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc]] [[Thể loại:Quốc gia Bắc Âu]] [[Thể loại:Quốc gia Scandinavia]] [[Thể loại:Thụy Điển]]