U-76 (tàu ngầm Đức) (1940)

U-76 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và đánh chìm được hai tàu buôn có tổng tải trọng 7.290 GRT trước khi bị các tàu khu trục HMS Wolverinetàu sà lúp HMS Scarborough đánh chìm trong Đại Tây Dương về phía Nam Iceland vào ngày 5 tháng 4, 1941.

Tàu ngầm U-52, một chiếc lớp Type VIIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-76
Đặt hàng 2 tháng 6, 1938
Xưởng đóng tàu Vegesacker Werft, Bremen-Vegesack
Kinh phí 4.760.000 Reichsmark [1]
Số hiệu xưởng đóng tàu 4
Đặt lườn 28 tháng 12, 1939
Hạ thủy 3 tháng 10, 1940 [2][3]
Nhập biên chế 9 tháng 12, 1940 [2][3]
Tình trạng Bị các tàu khu trục HMS Wolverinetàu sà lúp HMS Scarborough đánh chìm tại Đại Tây Dương, 5 tháng 4, 1941[2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIB
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 66,50 m (218 ft 2 in) (chung) [4]
  • 48,80 m (160 ft 1 in) (lườn áp lực) [4]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [4]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [4]
Chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) [4]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [4]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [4]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [4]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 7.800 hải lý (14.400 km; 9.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [4]
  • 90 hải lý (170 km; 100 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [4]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [4]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][5]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 27 140
Chỉ huy:
  • Đại úy Friedrich von Hippel
  • 3 tháng 12, 1940 – 5 tháng 4, 1941
Chiến dịch:
  • 1 chuyến tuần tra:
  • 28 tháng 3 – 5 tháng 4, 1941
Chiến thắng: 2 tàu buôn bị đánh chìm
(7.290 GRT)

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Phân lớp VIIB của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng có trọng lượng choán nước 753 t (741 tấn Anh) khi nổi và 857 t (843 tấn Anh) khi lặn). Con tàu có chiều dài chung 66,50 m (218 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 48,80 m (160 ft 1 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[1]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,9 kn (33,2 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.700 nmi (16.100 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 8 kn (15 km/h), và tầm hoạt động 90 nmi (170 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[1]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[1]

Chế tạo

sửa

U-76 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 6, 1938,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Vegesacker Werft tại Bremen-Vegesack vào ngày 18 tháng 12, 1939.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 3 tháng 10, 1940,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 9 tháng 12, 1940[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Friedrich von Hippel.[2]

Lịch sử hoạt động

sửa

Khởi hành từ Kiel vào ngày 19 tháng 3, 1941, U-76 đi đến Bergen, rồi xuất phát từ cảng Na Uy này vào ngày 28 tháng 3 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh.[5] Chiếc tàu ngầm tiến vào Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo FaroeShetland để tiến vào khu vực Đại Tây Dương về phía Tây ScotlandIreland. Ở vị trí giữa Đại Tây Dương về phía Nam Iceland, nó đã đánh chìm tàu buôn Phần Lan Daphne vào ngày 2 tháng 4.[6][7][8]

Sang ngày hôm sau 3 tháng 4, U-76 theo dõi Đoàn tàu SC 26 đang trong hành trình từ Sydney, Nova Scotia đến Liverpool. Nó phóng ngư lôi tấn công và đánh chìm chiếc chiếc tàu buôn Anh SS Athenic.[6] 40 người sống sót được chiếc tàu corvette HMS Arbutus cứu vớt.[5] Tuy nhiên vụ tấn công đã làm bộc lộ vị trí chiếc tàu ngầm, và mìn sâu do các tàu khu trục HMS Wolverinetàu sà lúp HMS Scarborough thả xuống đã đánh chìm U-76 tại tọa độ 58°35′B 20°20′T / 58,583°B 20,333°T / 58.583; -20.333. Một thành viên thủy thủ đoàn của U-76 đã tử trận, nhưng 42 người khác đã được cứu vớt và bị bắt làm tù binh chiến tranh.[2]

Tóm tắt chiến công

sửa

U-76 đã đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải trọng 7.290 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[6]
3 tháng 4, 1941 Daphne   Phần Lan 1.939 Bị đánh chìm
4 tháng 4, 1941 Athenic   Anh Quốc 5.351 Bị đánh chìm

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass (1991), tr. 43–44.
  2. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-76”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ a b Kemp (1997), tr. 69–70.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIB”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  5. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-76”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-76”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “SS Daphne”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “War Patrols of U-76”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

sửa