Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Stefan Wyszyński”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: Giáo Hoàng → Giáo hoàng, Hồng Y → Hồng y using AWB
Dòng 1:
'''Stefan Wyszyński''' (1901 - 1981) là một [[Hồng y]] người Ba Lan của [[Giáo hội Công giáo Rôma]]. Ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Gniezno]] và [[Tổng giáo phận Warsaw]], Ba Lan từ năm 1948 đến năm 1981. Ông hiện được tôn phong [[Đấng đáng kính]], là danh hiệu của bước thứ hai trong tiến trình bốn bước đến tuyên phong [[Hiển thánh]] của [[Giáo hội Công giáo Rôma]].<Refref name=g>[http://www.gcatholic.org/dioceses/diocese/wars0.htm Metropolitan Archdiocese of Warszawa, Poland]</ref>
 
Ngày 3 tháng 10 năm 2019, Tòa Thánh đã công nhận một [[phép lạ]] do ông cầu bầu và là mức đủ để cố Hồng y được tuyên phong [[Chân phước]]. Ông được ghi nhận là nhân tố đóg góp vào sự duy trì của Giáo hội Công giáo ở Ba Lan trong thời kỳ nước này là một nước theo Cộng sản.<Refref name=v>[http://vietcatholicnews.net/News/Html/252629.htm Giáo Hội chờ đến 30 năm mới xác nhận phép lạ ngoạn mục Y khoa không thể giải thích của ĐHY Wyszynksi]</ref>
 
==Tiểu sử==
Hồng y Stefan Wyszyński sinh ngày 3 tháng 8 năm 1901 tại Zuzela, Ba Lan. Sau quá trình tu học tại các chủng viện Công giáo, ngày 3 tháng 8 năm 1924, ông được truyền chức linh mục, là linh mục của Giáo phận Włocławek. Chủ sự nghi thức truyền chức cho ông là Giám mục [[Wojciech Stanisław Owczarek]], giám mục phụ tá Włocławek.<Refref name=h>[http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/bwysz.html Stefan Cardinal Wyszyński † Archbishop of Gniezno, Poland - Cardinal-Priest of Santa Maria in Trastevere, Archbishop of Warszawa {Warsaw}]</ref>
 
Sau khoảng thời gian 22 năm làm linh mục, Stefan Wyszyński được bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa [[Giáo phận Lublin]] vào ngày 25 tháng 3 năm 1946. Lễ tấn phong cho tân giám mục được tổ chức sau đó vào ngày 12 tháng 5 cùng năm. Chủ phong nghi thức giám mục là Hồng y [[August Hlond]], S.D.B., Tổng giám mục Tổng giáo phận Gniezno và hai vị phụ phong là Giám mục [[Karol Mieczysław Radoński]], giám mục chính tòa Włocławek và giám mục phụ tá [[Giáo phận Częstochowa]] [[Stanislao Czajka]].<Refref name=h/> Cùng năm này, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan và đảm trách vai trò này cho đến năm 1953. Ông đảm nhận chức vị này lần thứ hai từ năm 1956 cho đến khi qua đời.<Refref name=g/>
 
Hơn hai năm sau khi trở thành giám mục, ngày 12 tháng 11 năm 1948, Tòa Thánh thăng giám mục Stefan Wyszyński làm Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Gniezno]] và Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Warszawa]]. Năm năm sau đó (1953), ông được thăng tước Hồng y Nhà thờ Santa Maria in Trastevere nhưng không thể nhận sứ vụ chính thức cho đến ngày 12 tháng 1 năm 1957 vì đang thụ án tại nhà tù chế độ Cộng sản Ba Lan. Các giáo sĩ Công giáo gần như bị bắt giữ đồng loạt vào năm 1953 tại các nước như Ba Lan, Croatia, Hungary và Tiệp Khắc. Bản thân Wyszyński cũng bị bắt vào năm này.<Refref name=v/>
 
Hồng y Wyszynski từng đảm nhận vai trò Hồng Yy Giáo chủ Ba Lan và là một trong những người ủng hộ Giám mục trẻ tuổi [[Karol Wojtyla]], sau trở thành Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II]]. Khi công bố tân giám mục Wojtyla, Hồng y Wyszyński đã tuyên bố ''[[Habemus papam]]'' (“Chúng ta đã có Giáo Hoàng”hoàng”). Lời tuyên bố này gây ngỡ ngàng vì câu nói trên chỉ để công bố tân giáo hoàng sau một [[mật nghị hồng y]].<Refref name=v/>
 
Ông qua đời ngày 28 tháng 5 năm 1981, thọ 80 tuổi.<Refref name=h/>
 
==Tham khảo==