Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là danh hiệu vinh dự cao nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, phong tặng hoặc truy tặng cho các cá nhân "có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng" và những tập thể "có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nội bộ đoàn kết tốt; tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh."[1]

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Huy hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
Trao bởi Việt Nam
Loạidanh hiệu vinh dự
Ngày thành lập10 tháng 8 năm 1952 (1952-08-10)
Quốc gia Việt Nam
Cuống    
Tư cáchcá nhân, tập thể
Tình trạng
đang được trao
Sáng lậpHồ Chí Minh
Thông tin khác
Bậc trênCao nhất
Tương đươngAnh hùng Lao động

Cuống huy hiệu

Tính đến năm 2006, đã có 3.738 đơn vị được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 36 đơn vị được tuyên dương danh hiệu này 2 lần, 4 đơn vị được tuyên dương 3 lần. Về cá nhân, đã có 1.286 quân nhân được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 148 trong kháng chiến chống Pháp, 859 trong Kháng chiến chống Mỹ, 279 trong các cuộc chiến khác. Trong số đó, 160 anh hùng là nữ và 163 anh hùng là người dân tộc thiểu số. Có 1 anh hùng là người nước ngoài khi được công nhận (ông Nguyễn Văn Lập, tên khai sinh là Kostas Sarantidis, người Hy Lạp sau nhập quốc tịch Việt Nam).

Lịch sử sửa

Để động viên, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước, từ năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Hội Liên Việt chủ trương tổ chức Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua để khích lệ và tuyên dương những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động sản xuất. Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức 19 tháng 5 năm 1952 tại căn cứ địa Việt Bắc. Tại Đại hội này, ông Trường Chinh, với tư cách là Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam đã có bài phát biểu "Thi đua ái quốc với chủ nghĩa anh hùng mới"[2] và ông Hồ Viết Thắng, thay mặt Chính phủ và Mặt trận báo cáo tình hình thi đua ái quốc trước Đại hội,[3] nêu khái niệm đầu tiên về danh hiệu anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động. Một số gương tiêu biểu cũng được giới thiệu báo cáo trước Đại hội.

Sau kỳ Đại hội này, ngày 10 tháng 8 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 107/SL tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc cho 7 chiến sĩ thi đua và Sắc lệnh 108/SL tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất cho 24 chiến sĩ thi đua.[4] Bảy cá nhân đầu tiên được tặng danh hiệu Anh hùng gồm 4 Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn CầuCù Chính Lan; 3 Anh hùng Lao động Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.[5]

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, diễn ra thêm 2 lần tuyên dương Anh hùng quân đội (31 tháng 8, 1955[6]7 tháng 5, 1956).[7] Sau khi kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, tính đến năm 1970, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn tổ chức thêm 3 kỳ Đại hội liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc, tổng cộng đã có 289 cá nhân và 85 tập thể được phong danh hiệu Anh hùng (cả Anh hùng quân đội và Anh hùng lao động).[8]

Tại miền Nam, từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 5 năm 1965, Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất được tổ chức với gần 150 chiến sĩ thi đua về dự. Tại Đại hội này, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã quyết định tuyên dương 23 Anh hùng quân giải phóng, trong đó có 2 phụ nữ (Tạ Thị KiềuNguyễn Thị Út), 4 là dân tộc ít người (gồm Hồ Vai, Pi Năng Tăk, Puih Thu, ?). Hai năm sau, Đại hội lần thứ hai được tổ chức tháng 9 năm 1967, có thêm 47 cá nhân được phong tặng danh hiệu này.

Ngày 15 tháng 1 năm 1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự nhà nước, Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,[9] cùng với Thông tư 34-TTg ngày 11/3/1970 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn. Theo đó các danh hiệu Anh hùng chính thức được pháp điển hóa. Cũng từ đây, danh hiệu Anh hùng quân đội được chuyển tên thành danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.[8]

Chịu ảnh hưởng của văn bản này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng thay đổi danh hiệu Anh hùng quân giải phóng thành danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam tại Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ ba tổ chức vào năm 1973.

Sau khi Việt Nam thống nhất, 2 danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (miền Bắc) và Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (miền Nam) thống nhất lại thành một danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Cấp đề nghị và quyết định phong tặng sửa

Tập tin:Anhhunglucluongvutrang2.png
Mẫu Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cũ được sử dụng trước năm 2014

Theo Pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự Nhà nước: Anh hùng Lao độngAnh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1970 (không viết hoa), việc tặng danh hiệu Anh hùng lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết định, căn cứ vào đề nghị của Hội đồng Chính phủ.[9]

Theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, Quyết định phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (viết hoa) do Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam ký theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.[10]

Hình thức phong tặng đối với cá nhân và tập thể sửa

  • Cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được cấp bằng và huy hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
  • Tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được cấp bằng và huy hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và cờ "Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".

Danh sách các cá nhân được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân sửa

Bài chi tiết: Danh sách các cá nhân được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân

Xem thêm sửa

Chú thích sửa

  1. ^ “Tiêu chuẩn xét tặng hoặc truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  2. ^ “Bài nói chuyện "Thi đua ái quốc với chủ nghĩa anh hùng mới" của Trường Chinh”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  3. ^ “Báo cáo tình hình thi đua ái quốc”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  4. ^ “Sự kiện: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 107/SL, Sắc lệnh số 108/SL”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  5. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  6. ^ Lễ tuyên dương Anh hùng Quân đội lần thứ 2 Lưu trữ 2014-01-02 tại Wayback Machine, tuyên phong 26 cá nhân, trong đó có 8 liệt sĩ.
  7. ^ Bài nói chuyện trong lễ tuyên dương anh hùng quân đội lần thứ ba (7-5-1956), tuyên phong 43 cá nhân.
  8. ^ a b Thông tư 34-TTg năm 1970
  9. ^ a b “Pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự Nhà nước: Anh hùng lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1970”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  10. ^ Luật Thi đua, khen thưởng 2003