Gia đình
Các ví dụ và quan điểm trong chỉ nói tới Việt Nam này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này. |
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,[1] quan hệ nuôi dưỡng và/hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài.

Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến xã hội. Chức năng quan trọng nhất của gia đình là sinh sản (cha kết hôn với mẹ để cùng sinh ra con cái), bởi nó tạo ra nòi giống tương lai cho dân tộc, đảm bảo cho đất nước không bị suy vong do nạn lão hóa dân số. Gia đình cũng chính là tế bào của xã hội, đất nước muốn phát triển lành mạnh, bền vững thì Nhà nước phải có những chính sách để duy trì kết cấu gia đình vững mạnh (tức là phải hạn chế ở mức thấp nhất tình trạng ly hôn, tảo hôn, bạo lực gia đình, làm mẹ đơn thân, sinh con ngoài giá thú, quan hệ tình dục trước hôn nhân...).
Khái niệm Gia đìnhSửa đổi
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình. Khi so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc bởi các quy định pháp luật, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.[2]
Tầm quan trọng của gia đìnhSửa đổi
Gia đình được coi là tế bào của xã hội. Hôn nhân và Gia đình là nền tảng của xã hội, nơi sinh ra, nuôi dưỡng và giáo dục các thế hệ tương lai của đất nước, nơi gìn giữ và phát triển các nét đặc trưng văn hóa, truyền thống của một dân tộc, một quốc gia. Có các tế bào khỏe mạnh thì xã hội mới phát triển, ngược lại, nếu xuất hiện ngày càng nhiều "tế bào lỗi" thì xã hội sẽ suy thoái, truyền thống văn hóa, đạo đức của đất nước sẽ tan vỡ. Gia đình chính là cơ sở nền tảng cho các liên kết xã hội khác (cá nhân, dòng họ, làng xóm). Nếu truyền thống hôn nhân suy thoái thì các liên kết xã hội cũng sẽ tan vỡ, truyền thống văn hóa dân tộc cũng suy đồi và sức mạnh quốc gia sẽ bị hủy hoại.
Mục đích cơ bản nhất và quan trọng nhất của gia đình là việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, qua đó góp phần duy trì nòi giống, đảm bảo tương lai tồn tại của cả một dân tộc. Trong khi đó, các biến dị khác của gia đình không đạt được mục đích này (gia đình đa thê hoặckhông đảm bảo được việc nuôi dạy trẻ em lành mạnh, hôn nhân đồng tính thì vừa không duy trì được nòi giống vừa không đảm bảo được việc nuôi dạy trẻ em lành mạnh), chúng tạo ra các "tế bào lỗi" góp phần làm suy thoái xã hội.
Có phân tích cho rằng hiện tượng lão hóa dân số nghiêm trọng tại Mỹ và Tây Âu là do truyền thống gia đình, kết cấu hôn nhân 1 vợ – 1 chồng tại các nước này đã và đang bị phá vỡ. Kể từ sau thập niên 1960, quan hệ tình dục trước hôn nhân, phim ảnh khiêu dâm, phong trào cổ vũ đồng tính luyến ái, hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, chuyển đổi giới tính... nảy nở mạnh ở Mỹ và Tây Âu, chúng đã phá hủy phần lớn các giá trị hôn nhân – gia đình trong xã hội[3] Nhà bình luận Mark Steyn phân tích rằng xã hội các nước Tây Âu đang đi đến tự sát và hấp hối bởi tỷ lệ kết hôn và sinh sản giảm xuống quá thấp, giới trẻ thì mất hẳn niềm tin vào hôn nhân. Kết quả là chỉ sau 1 thế hệ, người Tây Âu đã phải hứng chịu nạn lão hóa dân số vào đầu thế kỷ 21 và dần bị lấn át bởi người Hồi giáo nhập cư. Mark Steyn nói rằng đã quá muộn để cứu vãn các nước Tây Âu: "Châu Âu thời kỳ hậu Ki-tô giáo không thực sự có niềm tin và nó cũng không có chuẩn mực gia đình. Họ đang tan biến dần vào quá khứ. Xã hội của họ, về cơ bản, đã bị phá vỡ thành những mảnh nhỏ"[4].[4].
Richard Dawkins cảnh báo rằng sự sụp đổ của các xã hội Tây Âu không phải là điều xa vời. Với tình trạng này, thì tới khoảng năm 2050–2070, người Hồi giáo sẽ trở thành nhóm dân cư chiếm đa số tại các nước Tây Âu. Khi đó, người Hồi giáo sẽ "đánh chiếm" được Tây Âu mà không cần súng đạn, và văn minh Tây Âu bản địa sẽ tàn lụi[5] Khi điều đó xảy ra, đây sẽ là ví dụ minh họa rõ ràng cho việc cả một đất nước, một nền văn hóa dù thịnh vượng về kinh tế song lại dần bị suy thoái và tàn lụi do coi thường thiết chế gia đình.
Một số nước đang gặp nguy cơ lão hóa dân số đã đề ra các chính sách để tránh lặp lại sai lầm này của xã hội Tây Âu. Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Vladimir Putin đã đề ra bộ luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính[6]. Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin "tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới" cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực nhằm tuyên dương những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại trào lưu cổ vũ đồng tính luyến ái, đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính đến từ các nước phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu. 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm[7] Bên cạnh đó, từ năm 2015, quốc hội Nga đã đề ra Ngày tình yêu gia đình để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các tổ chức phi chính phủ đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính[8]. Tổng thống Nga Vladimir Putin lý giải: chính sách cấm tuyên truyền đồng tính luyến ái là vấn đề quan trọng cho việc duy trì dân số đất nước:
- "Người châu Âu đang chết dần (do già hóa dân số)... và hôn nhân đồng tính không thể tạo ra trẻ em", "chúng tôi có sự lựa chọn cho riêng chúng tôi (nước Nga), và chúng tôi đã làm thế vì đất nước của chúng tôi"[9].
Trung Quốc cũng là một nước gặp nguy cơ lão hóa dân số. Dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình, chính phủ Trung Quốc có nhiều chính sách để cải thiện tỷ lệ sinh sản, đồng thời cổ vũ các giá trị văn hóa truyền thống, ngăn chặn các ảnh hưởng xấu từ văn hóa ngoại lai. Chính phủ Trung Quốc đã cấm tất cả các nội dung về đồng tính luyến ái được xuất hiện trên sóng phát thanh truyền hình, như là một phần của chính sách chống lại những nội dung "thô tục, vô đạo đức và không lành mạnh"[10]. Cảnh sát Trung Quốc giám sát chặt những hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, và họ sẽ giải tán những hoạt động đó nếu phát hiện ra chúng có ý đồ cổ vũ đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính[11] Quy định này đã được ban hành năm 2017, sau khi chính phủ Trung Quốc nhận định sự xuất hiện dày đặc của các bộ phim về đồng tính luyến ái trên Internet đã làm băng hoại giới trẻ Trung Quốc bởi nội dung gây suy đồi đạo đức, làm tha hóa lối sống thanh niên và văn hóa gia đình[12].
Nhà nghiên cứu Alexander Lapin giải thích tại sao lại cần phải ngăn chặn hôn nhân đồng tính để bảo vệ nòi giống và tương lai của đất nước[13]:
- Mục đích của những người ủng hộ hành vi tình dục đồng tính và hôn nhân đồng tính - đó là làm suy yếu hệ thống miễn dịch của quốc gia...
- Điều gì là tốt và những gì là xấu? Gia đình là gì? Quê hương là gì? Trẻ em nên nhận được một thông điệp rõ ràng về gia đình thông qua các phương tiện truyền thông, rằng mục tiêu cuộc sống của các em - là xây dựng một gia đình, phục vụ cộng đồng, sinh sản ra thế hệ tương lai cho Tổ quốc. Do đó, việc thúc đẩy đồng tính luyến ái, cũng như bất kỳ hình thức khác của sự vô đạo đức về tình dục là không tương thích với sự phục hưng của nước Nga. Điều này là trái với bản chất của đạo đức và tinh thần yêu nước truyền thống.
- Nước Nga đã phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng, mà cuối cùng có thể gây nguy hiểm cho sự tồn tại của các quốc gia. Đó không chỉ là tham nhũng và một nền kinh tế kém hiệu quả. Đó còn là già hóa dân số, suy thoái tinh thần và đạo đức, cũng như sự hỗn loạn về lý tưởng cống hiến. Vì vậy, để xây dựng một nhà nước mạnh, có sức cạnh tranh tốt, chúng ta cần phải có, trước hết, các định hướng đạo đức cho xã hội và gia đình... Các vấn đề an ninh thông tin của nhà nước phải được hướng dẫn bởi một mục tiêu chung - bảo vệ trẻ em và tổ chức của gia đình truyền thống như các giá trị tối cao
Phân loạiSửa đổi
Có nhiều cơ sở để phân loại gia đình thành các loại khác nhau.
Xét về quy mô, gia đình có thể phân loại thành:
- Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.
- Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ông bà, cha mẹ và con còn được gọi là tam đại đồng đường.[2]
- Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn thế hệ còn gọi là tứ đại đồng đường.
Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có thể phân chia gia đình thành hai loại:
- Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ. Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình trưởng lớn, có đặc tính tổ chức chặt chẽ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của người lớn tuổi nhất.
- Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng với các con. Do vậy, cũng có thể có gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); ngược lại, gia đình nhỏ không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó, nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc chỉ của người cha hoặc người mẹ với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
Kế hoạch hóa gia đìnhSửa đổi
Ở các nước đang phát triển, vì tỉ lệ sinh cao làm dân số tăng cao, chính phủ thực hiện các chính sách để người dân giảm số con trong gia đình. Ở Trung Quốc, chính sách một con làm giảm đáng kể tốc độ tăng dân số của nước này. Ở Việt Nam, chính quyền khuyến khích mỗi gia đình chỉ nên có một đến hai con. Trong khi đó, ở nhiều nước phát triển như nhiều nước Âu châu và Hàn Quốc, Nhật Bản, chính phủ có biện pháp khuyến khích gia đình có thêm con nhằm tránh giảm dân số.
Mặc dù đã có những chính sách nhất định về Kế hoạch hóa sinh con, nhưng nhiều hộ gia đình vẫn có tâm lý khác nhau:
- Một mặt do gia đình có điều kiện, sinh cho vui cửa vui nhà
- Mặt khác do sinh con 1 bề & muốn có người nối dõi
Chức năng cơ bảnSửa đổi
Gia đình có 2 chức năng cơ bản sau:
- Tạo ra một thế hệ mới bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào tạo:
- Chức năng sinh sản: tạo ra con người mới về mặt sinh học (cha kết hôn với mẹ để cùng sinh ra con cái). Đây là chức năng quan trọng nhất của gia đình, bởi nó tạo ra nòi giống tương lai cho đất nước, đảm bảo cho loài người không bị tuyệt chủng và đất nước không bị suy vong do lão hóa dân số.
- Chức năng giáo dục của gia đình: cha mẹ, ông bà giáo dục con cháu mình, qua đó góp phần duy trì truyền thống văn hóa, đạo đức của xã hội.
- Nuôi dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình: gia đình thoả mãn những nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của các thành viên.
Hai chức năng cơ bản này chi phối toàn bộ các chức năng khác của gia đình như:
Gia đình Việt NamSửa đổi
Theo phong tục tập quán người Việt, các thành viên trong gia đình thường về tụ hội đông đủ vào dịp Tết Nguyên Đán hằng năm. Ngoài ra các dịp đám cưới, đám tang, đám giỗ cũng là dịp để các thành viên trong gia đình tập hợp lại. Gia đình Việt Nam có đặc điểm là nhiều thế hệ sống chung trong cùng một mái nhà. Mỗi gia đình thường có ba thế hệ sống chung với nhau: ông bà - cha mẹ - con cái. Đối với gia đình Việt Nam thì người trụ cột thường là người chồng (hoặc người cha, ông).
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký ban hành Quyết định 72/2001/QĐ-TTg chọn ngày 28 tháng 6 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam.
Thuật ngữ quan hệ trong gia đìnhSửa đổi
Ngoài hai từ chính thống cha và mẹ, các vùng khác nhau có những từ khác nhau như bố, ba, thầy, tía để chỉ cha và má, u, mạ để chỉ mẹ.
Một số từ để chỉ mối quan hệ nếu có trong gia đình như: ông nội là cha của cha, bà nội là mẹ của cha, ông ngoại là cha của mẹ, bà ngoại là mẹ của mẹ. Và bác trai của cha mẹ thì là ông bác; bác gái của cha mẹ là bà bác. Chú của cha mẹ là ông chú; cô của cha mẹ là bà cô. Cậu của cha mẹ là ông cậu; dì của cha mẹ là bà dì.
- Miền Bắc (Thanh Hóa trở ra):
Bác là anh, chị của cha, mẹ.
Chú là em trai của cha, Thím là vợ của chú.
Cô là em gái của cha, Chú là chồng của cô.
Cậu là em trai của mẹ, Mợ là vợ của cậu.
Dì là em gái của mẹ. Chú là chồng của dì.
Dì gẻ là vợ mới của bố (Cách gọi của con riêng của chồng).Dượng là chồng mới của mẹ (Cách gọi của con riêng của vợ)
Thông thường để gọi một người trong gia đình người ta dùng từ chỉ mối quan hệ kết hợp với thứ của người đó (nếu có quan hệ huyết thống) hoặc thứ của chồng hoặc vợ người đó (nếu không có quan hệ huyết thống) chẳng hạn như chú tư, vợ của chú tư được gọi là thím tư. Con đầu trong gia đình được gọi là con cả (Hoặc con đầu lòng) trở đi [ Ví dụ: Con cả, con hai, con ba,...., con út (người con sinh ra cuối cùng gọi là con út) ] không có thứ một, chỉ có con một (Ý chỉ nhà này chỉ có đúng 1 người con).
- Miền Trung và Miền Nam:
Bác (trai) là anh của cha, Bác gái là vợ của bác.
Chú là em trai của cha, Thím là vợ của chú.
Cô là chị hoặc em gái của cha, Dượng là chồng của cô.
Cậu là anh hoặc em trai của mẹ, Mợ là vợ của cậu.
Dì là chị hoặc em gái của mẹ. Dượng là chồng của dì.
Thông thường để gọi một người trong gia đình người ta dùng từ chỉ mối quan hệ kết hợp với tên của người đó. Con trong gia đình được gọi theo thứ tự cả, hai, ba, tư. Trong Miền Nam thường không dùng từ cả, con đầu sẽ tính là thứ hai (Ví dụ như anh cả ở Miền Bắc thì Miền Nam sẽ gọi là anh hai).
Anh em bà con (họ hàng): con của chú bác gọi là anh chị em chú bác (anh chị em con chú con bác), con của dì gọi là anh chị em bạn dì (anh chị em con dì), con của cô cậu gọi là anh chị em cô cậu (anh chị em con cô con cậu).
Dâu rể: gọi theo vợ hoặc chồng là người có quan hệ huyết thống với mình kết hợp với từ dâu hoặc rể ví dụ như con dâu, con rể, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu. Hai người chồng của hai chị em gái miền Nam gọi là anh em cột chèo, miền Bắc gọi là anh em đồng hao hoặc đứng nắng. Hai người vợ của hai anh em trai gọi là chị em bạn dâu.
Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
- American Kinship, David M. Schneider
- A Natural History of Families, Scott Forbes, Princeton University Press, 2005, ISBN 0-691-09482-9
- Foucault, Michel (1978). The History of Sexuality: Volume I: An Introduction. New York Vintage Books. ISBN 978-0-679-72469-8
- More Than Kin and Less Than Kind, Douglas W. Mock, Belknap Press, 2004, ISBN 0-674-01285-2
- Denis Chevallier, « Famille et parenté: une bibliographie », Terrain, Numéro 4 – Famille et parenté (mars 1985), mis en ligne le 17 juillet 2005. Consulté le 15 juin 2007, terrain.revues.org (tiếng Pháp)
- Jack Goody (1983) The Development of the Family and Marriage in Europe (Cambridge University Press); translated into Spanish, French, Italian, Portuguese.
Chú thíchSửa đổi
- ^ Sách giáo khoa môn Giáo dục công dân lớp 10 của Việt Nam, nhà xuất bản Giáo dục, năm 1995
- ^ a b c Trung tâm Thông tin (tổng hợp) (21/08/2006). “Bản sao đã lưu trữ”. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|tên bài=
và|title=
(trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|ngày=
(trợ giúp) - ^ https://www.frontpagemag.com/fpm/266828/arab-muslims-prediction-about-fall-western-timothy-furnish[liên kết hỏng]
- ^ a b https://www.lifesitenews.com/news/muslim-takeover-of-europe-is-biggest-story-of-our-time-and-nobody-knows-it
- ^ https://www.jihadwatch.org/2018/03/turkish-leaders-islamic-takeover-of-europe-inevitable
- ^ “Cho phép hôn nhân đồng giới: Âm mưu chính trị khủng khiếp nhắm vào Nga - VTC News”. Báo điện tử VTC News. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Russia will deport foreigners for homosexual propaganda; Duma passes bill 436”. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
- ^ “United Russia activists create 'flag for straights' to oppose 'gay fever'”. RT International. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Putin: Europeans Are Dying Out Because They Allow Same-Sex Couples To Marry”. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têntheg
- ^ http://www.newnownext.com/china-gay-crackdown/05/2017/
- ^ http://viettimes.vn/bi-cam-tai-trung-quoc-phim-dong-tinh-nham-nhi-van-nhap-khau-viet-nam-43547.html
- ^ http://www.narodsobor.ru/view/kolonka-redaktora/13652-aleksandr-lapin-pochemu-neobxodimo-zapretit-propagandu-gomoseksualizma#.VtWyAvmLTIU
Liên kết ngoàiSửa đổi
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Gia đình. |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Gia đình tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- UN.org, Families and Development