Kênh Giang

xã thuộc Thủy Nguyên

Kênh Giang là một thuộc huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, Việt Nam.

Kênh Giang
Xã Kênh Giang
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐồng bằng sông Hồng
Thành phốHải Phòng
HuyệnThủy Nguyên
Địa lý
Tọa độ: 20°57′30″B 106°39′9″Đ / 20,95833°B 106,6525°Đ / 20.95833; 106.65250
Kênh Giang trên bản đồ Việt Nam
Kênh Giang
Kênh Giang
Vị trí xã Kênh Giang trên bản đồ Việt Nam
Diện tích7,4 km²[1]
Dân số (1999)
Tổng cộng8665 người[1]
Mật độ1171 người/km²
Khác
Mã hành chính11512[2]

Xã Kênh Giang có diện tích 7,4 km², dân số năm 2022 là 11.145 người,[1] mật độ dân số đạt 1506 người/km².

1. Vị trí địa lý

Xã Kênh Giang nằm ở phía Bắc huyện Thủy Nguyên, có vị trí ranh giới như sau:

- Phía Bắc giáp với xã Lưu Kiếm và Liên Khê;

- Phía Đông giáp với xã Hòa Bình.

- Phía Nam giáp xã Đông Sơn và Mỹ Đồng;

- Phía Tây giáp với xã Chính Mỹ;

2. Diện tích tự nhiên

Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 724,50 ha trong đó: Đất nông nghiệp 472,14 ha, chiếm 65,17 %; đất phi nông nghiệp 248,89 ha, chiếm 34,35 %; chưa sử dụng 3,47 ha chiếm 0,48 % tổng diện tích đất tự nhiên.

3. Địa hình, khí hậu, thủy văn

a. Địa hình địa mạo

Địa hình xã Kênh Giang tương đối bằng phẳng, có xen một số đồi đất. Cấu tạo địa chất điển hình là lớp trầm tích sông lắng đọng trên đá già. Khu vực đồng bằng cấu tạo của đất trẻ, chủ yếu là bụi, sét, bùn, cát. khu vực đồi núi có nền địa chất trung bình

b. Đặc điểm khí hậu

    Nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu á, nên Kênh Giang chịu ảnh hưởng của gió mùa. Mùa gió bấc (mùa đông) lạnh và khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Gió mùa nồm (mùa hè) mát mẻ, nhiều mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.600 - 1.800 mm.

-        Các chỉ số trung bình năm:

+      Nắng: Trung bình 1600 giờ/năm.

+      Mưa: Trung bình 1700 mm/năm ( Cao nhất là 1.800mm/năm, thấp nhất là 1600mm)

+      Gió: Trung bình 3,5 m/s/năm.

+      Nhiệt độ: trung bình trong năm từ 23°C – 26oC, tháng nóng nhất (tháng 6,7) nhiệt độ có thể lên đến 44oC và tháng lạnh nhất (tháng 1,2) nhiệt độ có thể xuống dưới 5oC.

+      Độ ẩm: trung bình vào khoảng 80 – 85%, cao nhất vào tháng 7, 8, 9 và thấp nhất là tháng 1, tháng 12

c.     Điều kiện thủy văn

-  Nước mặt: Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2020 thì xã Kênh Giang có 6,91 ha đất mặt nước chuyên dùng và 43,45 ha đất sông, ngòi, kênh, rạch. Tuy nhiên nguồn nước mặt phân bố không đều trong năm. Mùa hè tập trung tới 85% lượng mưa năm, các sông đầy nước khiến cho nhiều nơi bị ngập, úng, trong khi đó mùa khô lượng mưa chỉ chiếm 15%.  sửa

Xã Kênh Giang có sông Giá chảy qua có vai trò cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời có thể khai thác nước sử dụng cho công nghiệp, dịch vụ khai thác và nuôi trồng thủy sản.

- Nước ngầm: Nguồn nước ngầm xã Kênh Giang tương đối phong phú. Hiện tại, toàn xã có hai nhà máy nước sạch cung cấp nước sạch cho đại bộ phận nhân dân trong xã. Chất lượng nước ngầm tương đối đảm bảo, không có dấu hiệu bị nhiễm kim loại nặng hay hóa chất độc hại.

4. Cảnh quan

Cảnh quan xã Kênh Giang được chia làm bốn phần rõ rệt là khu vực dân cư, cánh đồng sản xuất nông nghiệp, vùng đồi núi, sông Giá.

Cảnh quan nhân tạo: xã có đình Trà Sơn, chùa Trà Sơn, đền Nghè, đền Chợ Giá, chùa Linh Chương, đình Trại Kênh, Chùa Linh Sơn.

5. Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên đất:

Tài nguyên đất đai: Tổng diện tích tự nhiên của xã là 724,50 ha, trong đó: Đất nông nghiệp là 472,14 ha, đất trồng lúa là 206,94 ha; đất NTTS là 104,10 ha.

Đất vùng đồng bằng: có vị trí nằm ở trung tâm xã được bao bọc bởi một số đồi núi thấp, đất đai của xã tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho sản xuất và phát triển dịch vụ, du lịch, thương mại, công nghiệp...

Đất vùng núi cao: bao gồm đất ở các sườn núi nằm rải rác bao xung quanh xã, có độ cao trung bình 50 - 80m, thích hợp cho trồng cây lâm nghiệp như:  thông, bạch đàn, keo, một số khoáng sản như Montmorillonit (trong đất sét) có thể cung cấp nguyên liệu luyện kim phục vụ công nghiệp, …

Tài nguyên nước:

+ Nước mặt: được cung cấp chủ yếu từ sông Giá và nước mưa tự nhiên.

+ Nước ngầm: Nguồn nước ngầm có thể khai thác sử dụng để phục vụ cho nhu cầu đời sống, phát triển sản xuất trên địa bàn.

+ Tài nguyên khác: cảnh quan thiên nhiên sơn thủy hữu tình là nguồn tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho Kênh Giang.

6. Đánh giá, nhận xét

        sửa

         - Xã Kênh Giang với vị trí địa lý rất thuận lợi, có quốc lộ 10 chạy qua, thuận lợi cho việc đi lại và giao thương, phát triển kinh tế của người dân. Xã Kênh giang còn có sông Giá , kênh Hòn Ngọc chảy qua, lượng nước dồi dào phục vụ cho nhu cầu tưới tiêu trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, ngoài ra tạo nên các vùng cảnh quan khu du lịch.

- Xã Kênh Giang có lực lượng lao động trong độ tuổi đông, trình độ học vấn ngày càng được nâng cao, là nguồn nhân lực phục vụ cho các ngành kinh tế phát triển, nâng cao thu nhập ở địa phương;

- Cơ cấu kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất qui mô hàng hóa và dịch vụ;

- Hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình công cộng phục vụ trong toàn xã được đầu tư tương đối đầy đủ đáp ứng được nhu cầu phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân;

  - Cảnh quan thiên nhiên cũng ưu đãi cho xã ưu thế phát triển du lịch: có sông Giá, kênh Hòn Ngọc tạo nên phong cảnh và nhiều hệ thống kênh mương nội đồng chảy qua, đây là một trong những nét rất đặc trưng của xã. Kết hợp với cảnh quan nhân tạo: xã có đình Trà Sơn, chùa Trà Sơn, đền Nghè, đền Chợ Giá, chùa Linh Chương, đình Trại Kênh, Chùa Linh Sơn.

Đình Trại Kênh và Đền chợ Giá sửa

Đình làng Trại Kênh xã Kênh Giang thờ 3 anh em Lý Phả, Lý Hoằng, Lý Quảng là tướng nhà Đinh, người Hoa Lư, có công tham gia dẹp loạn 12 sứ quân. Cuối đời Đinh, nội bộ triều đình mâu thuẫn, ba anh em về ẩn cư ở trang Sài Kênh, huyện Thủy Đường. Khi Nguyễn Bặc vời ba anh em về Hoa Lư giúp chống Lê Hoàn và đều bị tử trận cùng Nguyễn Bặc.

Đền chợ Giá:

Xưa Tổng đốc Nguyễn Tri Phương khi đi ngang qua nơi này đã phải thốt lên rằng;

“Đàn cò trắng đậu trong mơ

Xa xa dãy núi nhấp nhô trập trùng

Cửa đền soi bóng con sông

Dòng sông mang nặng ánh hồng phù sa.”

Đền chợ Giá:Theo thần phả làng Mỹ Giang có lược ghi; đền chợ Giá – Nghè Mỹ Giang có từ đầu thế kỉ XI, năm 1102 (di bút của Hàn Lâm Viện Đông Các đại học sĩ Nguyễn Bính). Vào năm Nhâm Ngọ Long Phù thứ 2, đất nước đang trong cảnh lầm than loạn lạc, khi ấy 30 vạn quân giặc Tống do tên tướng Nguyễn Ngao cầm đầu đang lăm le xâm lấn địa giới giang đầu. Bọn chúng cho đóng đồn tại Bạch Đằng Giang và An Lâm Thị. Thế giặc mạnh, triều đình lo lắng nhà Vua đích thân cầm quân đánh giặc. Đến Mỹ Giang Trang thuộc huyện Thủy Đường thời đó. Lúc này trời đã tối, đại quân của Vua đóng ở chùa Mỹ Cụ. Đêm nằm ngủ trong chùa, nhà Vua nằm mộng thấy có người con gái dung nhan yểu điệu, mi thanh mục tú xưng danh là Phổ Thị Huyền muốn tiến cử hai em là Phổ Hộ và Phổ Hóa đến giúp Vua diệt giặc. Sáng dậy Vua cho triệu tập dân làng đến hỏi sau đó đến chợ Giang Tân ( nay là chợ Giá) gặp được hai anh em họ Phổ. Vua lấy làm mừng bèn tiến cử 02 ông cầm 02 cánh quân bộ. Trận chiến năm ấy quân ta toàn thắng, tướng giặc Nguyễn Ngao bị bắt sống. Trong tiệc khao dân làng Vua còn đọc bài thơ:

Nhất triều tụ hội hoán tinh thần

Trẫm thị lương quân ngộ nghĩa thần

Trinh nữ nhất tiêu hồn báo mộng

Mỹ Giang hương hỏa ức niên xuân

Hai ông Phổ Hộ và Phổ Hóa được Vua phong là Hộ công tả bật nguyên soái; Hữu bật nguyên soái đại tướng công. Vua ban cho dân làng một trăm quan tiền để lập đền thờ bà Phổ Thị Huyền và ban truyền cho dân làng phải đời đời phụng thờ, hương hỏa bà. Theo thần phả còn lưu giữ tại đền, vào năm Duy Tân thứ 3 bà được truy phong là bản cảnh thành hoàng – Huệ đức Trinh linh – Phổ Thị Huyền càn quý – Lương Phạm Đình Quân công chúa. Đến năm Khải Định thứ 9 bà được sắc phong một lần nữa. Thật tự hào sau hơn 900 năm, nhiều lần trùng tu ngôi đền thờ bà Phổ Thị Huyền đã được phục dựng lại rất công phu nhờ vào công lao đóng góp của những người con quê hương cũng như du khách thập phương xa gần. Xưa chợ Giá là nơi sầm uất, giao thương buôn bán, với khung cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập. Hiện nơi đây người dân đã dựng lại khu chợ xưa làm nơi buôn bán vật phẩm, sản vật để tái hiện lại cảnh tượng buôn bán khi xưa. Bên cạnh đó, người dân cũng không ngừng phục dựng lại cảnh quan của khu chợ để hợp thành một quần thể di tích đa dạng và thống nhất. công lao đóng góp của rất nhiều người trong đó có nhiều người con của quê hương, có du khách thập phương. Ngoài việc bảo tồn tín ngưỡng tâm linh thì đây còn là nơi bảo tồn về giá trị văn hóa của người phương Đông. Những giá trị truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam- thể hiện truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn”, đạo lý của dân tộc. Vì vậy việc bảo tồn các di tích là trách nhiệm chung của mọi người”. Hiện ngôi đền còn dấu tích của cây bồ đề có niên đại trên 500 năm và cây Thị trên 200 năm.

Một ngôi đền nằm cạnh dòng sông thơ mộng hiền hòa đã gợi về biết bao kí ức, về một thời chống giặc của cha ông ta. Ngày nay những dấu tích còn lưu giữ, để lại là những tư liệu đáng quý để con cháu đời sau tưởng nhớ đến công lao vĩ đại của một thời đã đi qua. Đền Chợ Giá gần gũi, gắn với người dân Kênh Giang từ bao đời nay, cùng với giếng nước, cây đa, sân đình thì di tích đền Chợ Giá đến nay đã được trùng tu giữ nguyên bản sắc văn hóa tâm linh.

Chú thích sửa

  1. ^ a b c “Mã số đơn vị hành chính Việt Nam”. Bộ Thông tin & Truyền thông. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
  2. ^ Tổng cục Thống kê

nguồn từ: Báo điện tử Kinh tế & Đô thị  ; Giấy phép của Bộ Thông tin & Truyền thông số 196/GP-BTTTT cấp ngày 21/04/2022

Tham khảo sửa