Mắc ca hay mác ca là tên gọi từ cách phiên âm trong tiếng Việt của chi thực vật có danh pháp khoa học Macadamia, gồm nhiều cây thân gỗ có nguồn gốc từ châu Đại Dương (Úc), thuộc họ Proteaceae.[1][2] Các loài trong chi này là bản địa của đông bắc New South Wales và trung-đông nam Queensland. Cây này là một loại có trái thương mại.[3] Ngôn ngữ của thổ dân bản địa Úc thường gọi cây này bằng các tên gọi như bauple, gyndl, jindilli.[3] Trước đây chi này có nhiều loài,[2] nhưng kết quả nghiên cứu về gen và hình thái được công bố năm 2008 bởi Austin Mast và cộng sự đã tách chúng ra khỏi chi Macadamia, và chi này hiện còn 4 loài.[2]

Mắc ca
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
Bộ (ordo)Proteales
Họ (familia)Proteaceae
Chi (genus)Macadamia
F.Muell.

Danh sách loài sửa

Các loài đã tách ra để thành lập chi riêng:

Chi Lasjia P.H.Weston & A.R.Mast, thuộc chi Macadamia cho đến năm 2008
Chi Catalepidia P.H.Weston, thuộc chi Macadamia cho đến năm 1995
Chi Virotia L.A.S.Johnson & B.G.Briggs, thuộc chi Macadamia, sau đó được tách 2 lần vào các năm 1975 và 2008

Sản xuất sửa

 
Nhân mắc ca tươi còn vỏ, cắt ngang.
 
Nhân mắc ca còn vỏ và mắc ca rang
 
Nhân mắc ca được phủ sô cô la

Hạt cây là một loại thực phẩm có giá trị. Chỉ 3 trong số các loài là Macadamia integrifolia, Macadamia ternifolia, và Macadamia tetraphylla là có giá trị thương mại. Chỉ 2 trong 3 loài này (Macadamia integrifoliaMacadamia tetraphylla) có thể ăn sống được. Các loài còn lại trong chi này có độc tính và/hoặc không thể ăn hạt như M. whelaniiM. ternifolia; độc tính của chúng là do có mặt chất cyanogenic glycosides. Các loại glycoside này có thể được loại bỏ bằng cách ủ lâu, đây là phương pháp được người thổ dân Úc áp dụng cho các loài này.

Hai loài ăn được đã bị lai tạp, và M. tetraphylla bị đe doạ trong tự nhiên do lý do này. Hạt của nó được những người châu Âu ở nam Brisbane mô tả năm 1828 bởi nhà thám hiểm và thực vật học Allan Cunningham. Một trong những địa điểm có cây mắc ca hoang được tìm thấy đầu tiên là Mount Bauple gần Maryborough ở đông nam Queensland, Australia. Nhân của quả là một trong số ít thực phẩm được sản xuất và xuất khẩu số lượng lớn.[4]

Các vườn cây mắcca thương mại đầu tiên được trồng vào đầu thập niên 1880 bở Rous Mill, 12 kilômét (7,5 mi) đông nam Lismore, New South Wales, là cây loài M. tetraphylla.[5] Bên cạnh sự phát triển công nghiệp cửa hàng nhỏ ở Úc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, mắcca đã được trồng rộng rãi thương mại ở Hawaii từ thập niên 1920. Hạt mắcca được nhập khẩu đầu tiên vào Hawaii năm 1882 bởi William H. Purvis. Một nhà quản lý trẻ của công ty Pacific Sugar Mill ở Kukuihaele trên Đảo Lớn, đã trồng hạt nó cùng năm tại Kapulena.[6]

Mắc ca được sản xuất ở Hawaii đã trở nên nổi tiếng toàn cầu. Tuy nhiên, năm 2006, sản lượng mắc ca bắt đầu giảm ở Hawaii do các nhà sản xuất khác có giá thấp hơn.[7]

Ngoài Hawaii và Australia (35.200 tấn năm 2013), mắcca cũng được sản xuất thương mại ở Nam Phi (37.000 tấn - 2013), Brazil, California, Costa Rica, Israel, Kenya, Bolivia, New Zealand, Colombia, GuatemalaMalawi. Australia không còn là nhà sản xuất thương mại lớn trên thế giới - tổng sản lượng năm 2013 vào khoảng 135.000 tấn nhân hạt trên toàn cầu. Cho đến nay, việc trồng macadamia thương mại ở Florida đã không thành công, vì cho năng suất thấp. Tuy nhiên, macadamia là một loại cây trồng trước nhà phổ biến ở Florida và người ta đang cố gắng chọn lọc gống để nâng cao năng suất.[8]

Giá trị dinh dưỡng sửa

Hạt mắc ca tươi, tính trên 100 gam
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)
Năng lượng3.080 kJ (740 kcal)
75.8 g
*Chất béo bão hòa: 12 g
*Chất béo chưa bão hòa: 59 g
*Chất béo chưa bão hòa đa: 1.5 g
7.9 g
VitaminLượng
%DV
Vitamin B6
16%
0.275 mg
Vitamin C
1%
1.2 mg
Vitamin E
4%
0.54 mg
Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[9] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[10]

So sánh với các loại hạt quả ăn được phổ biến khác như hạnh nhân hay đào lộn hột, Mắc-ca chứa nhiều chất béo nhưng ít protein[11]. Hạt mắc ca có hàm lượng chất béo chưa bão hòa đơn cao nhất trong số các loại hạt đã biết, chứa khoảng 22% axit béo omega-7axit palmitoleic[12], có các tác động sinh học tương tự như một chất béo chưa bão hòa đơn. Nó cũng chứa 9% protein, 9% cacbohydrat và 2% sơ dinh dưỡng, cũng như calci, phosphor, kali, natri, selen, sắt, thiamin, riboflavinniacin[13].

Mắc-ca có độc tính đối với chó. Việc nuốt phải hạt mắc ca có thể gây nhiễm độc mắc ca (macadamia toxicosis), được đánh dấu bằng các biểu hiện như suy yếu và tê liệt các chân sau tới mức không đứng vững, xảy ra trong vòng 12 giờ sau khi nuốt phải. Phụ thuộc vào số lượng nuốt vào và kích thước con chó, các triệu chứng có thể bao gồm run rẩy cơ, tổn thương khớp và tổn thương bụng nghiêm trọng. Với liều độc cao, việc sử dụng các loại thuốc giảm đau có thể là cần thiết để giảm đau cho tới khi các tác động độc hại giảm đi. Sự phục hồi hoàn toàn thường diễn ra trong vòng 24-48 giờ[14].

Phân bố sửa

Cây này được nhân rộng tại một số vùng tại Trung Quốc, Thái Lan... Quả mắc ca hiện nay được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp mỹ phẩm và thực phẩm chức năng, do đó nhu yếu về sản vật này ngày một cao.[cần dẫn nguồn]

Năm 1881 mắc ca được đưa tới trồng ở Hawaii, lúc đó chúng được sử dụng như một cây trồng chắn gió và để chống thoái hóa đất. Năm 1948, Trạm nghiên cứu nông nghiệp Hawaii đã đầu tư nghiên cứu về lĩnh vực giống và đã tạo ra các dòng có nhiều triển vọng làm tiền đề cho công nghiệp mắc ca hiện đại ở Hawaii như ngày nay.

Tại Việt Nam sửa

Cây mắc ca được trồng ở Việt Nam đầu tiên vào năm 1994 lúc Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam gieo 10 cây từ hạt và trồng thử tại Ba Vì, Hà Nội.[15] Sau đó, cây mắc ca được trồng thử nghiệm và nhân giống ở nhiều tỉnh khác nhau, chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.

Từ năm 2000, diện tích trồng mắc ca ở Việt Nam tăng dần và năm 2018 đạt khoảng 2.000 ha trồng tập trung. Vào tháng 9/2016, theo kết quả điều tra thuộc đề án quy hoạch phát triển Mắc ca vùng Tây Nguyên của Viện Điều tra và Quy hoạch rừng (thuộc Tổng cục Lâm nghiệp) cho biết diện tích trồng cây mắc ca ở các tỉnh Tây Nguyên khoảng 1.630 ha, trong đó Kon Tum 50 ha, Gia Lai 80 ha, Đắk Lắk 500 ha, Đắk Nông 600 ha và Lâm Đồng (Lâm Hà) 400 ha.[16]

Giáo sư Nguyễn Lân Hùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Mắc ca Việt Nam cho biết: "Lâm Đồng là thủ phủ mắc ca của cả nước và Lâm Hà là địa phương chủ lực của Lâm Đồng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp cả trên mặt trận mắc ca". Một số huyện của tỉnh Lâm Đồng gồm Lâm Hà, Lâm Hà, Di Linh, Bảo lâm, Đức Trọng, Đam Rông, Bảo Lộc và Đơn Dương được phê duyệt quy hoạch phát triển cây mắc ca theo Quyết định 1062/QĐ-UBND, định hướng tới năm 2030.[17]

Chú thích sửa

  1. ^ Australian Plant Name Index (APNI), Integrated Botanical Information System (IBIS) database (listing by % wildcard matching of all taxa relevant to Australia). Centre for Plant Biodiversity Research, Australian Government http://www.anbg.gov.au/cgi-bin/apni?00TAXON_NAME=Macadamia%25. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2013. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp); |contribution= bị bỏ qua (trợ giúp)
  2. ^ a b c Mast, Austin R.; Willis, Crystal L.; Jones, Eric H.; Downs, Katherine M.; Weston, Peter H. (07- 2008). “A smaller Macadamia from a more vagile tribe: inference of phylogenetic relationships, divergence times, and diaspore evolution in Macadamia and relatives (tribe Macadamieae; Proteaceae)”. American Journal of Botany. 95 (7): 843–870. doi:10.3732/ajb.0700006. ISSN 1537-2197. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  3. ^ a b The Bopple Nut
  4. ^ “Macadamia Health Benefits”. Australian Macadamia. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2012.
  5. ^ Macadamia Power Pty (1982). Macadamia Power in a Nutshell. Macadamia Power Pty Limited. tr. 13. ISBN 978-0-9592892-0-6.
  6. ^ Schmitt, Robert. “Macadamia Nuts”. Hawaiian Historical Society. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2012.
  7. ^ “Hawaii Macadamia Nuts: Final Season Estimates” (PDF). Hawaii Department of Agriculture. ngày 13 tháng 7 năm 2007. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2012.
  8. ^ Boning, Charles (2006). Florida's Best Fruiting Plants: Native and Exotic Trees, Shrubs, and Vines. Sarasota, Florida: Pineapple Press, Inc. tr. 117.
  9. ^ United States Food and Drug Administration (2024). “Daily Value on the Nutrition and Supplement Facts Labels”. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine; Health and Medicine Division; Food and Nutrition Board; Committee to Review the Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium (2019). Oria, Maria; Harrison, Meghan; Stallings, Virginia A. (biên tập). Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium. The National Academies Collection: Reports funded by National Institutes of Health. Washington (DC): National Academies Press (US). ISBN 978-0-309-48834-1. PMID 30844154.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ [1] Lưu trữ 2015-03-03 tại Wayback Machine USDA, search for "Nuts, raw"
  12. ^ (German)/(English) [2] Lưu trữ 2009-04-18 tại Wayback Machine, Federal Research Centre for Nutrition and Food (Bundesforschungsanstalt für Ernährung und Lebensmittel (BfEL))
  13. ^ Macadamia nutrition
  14. ^ Christine Allen (10-2001). “Treacherous Treats – Macadamia Nuts” (PDF). Veterinary Technician. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  15. ^ Phát triển cây Mắc ca ở Việt Nam: Thực trạng và những bài học kinh nghiệm trên thế giới Lưu trữ 2019-03-31 tại Wayback Machine, Giáo sư Trần Khắc Thi.
  16. ^ Viện Điều tra Quy hoạch rừng (2013), Báo cáo ""Quy hoạch phát triển cây Mắc ca vùng Tây Nguyên giai đoạn 2012 – 2020, tầm nhìn đến 2025"".
  17. ^ “Mắc ca - cơ hội và thách thức của nông dân Lâm Đồng”. Báo Lâm Đồng. Truy cập 31 tháng 3 năm 2019.

Tham khảo sửa