Ngữ hệ Hán-Tạng
Ngữ hệ Hán-Tạng, trong vài nguồn được gọi là ngữ hệ Tạng-Miến hay Liên Himalaya, là một ngữ hệ gồm hơn 400 ngôn ngữ được sử dụng tại Đông Á, Đông Nam Á, và Nam Á. Hệ này chỉ đứng sau ngữ hệ Ấn-Âu về số lượng người nói bản ngữ. Những ngôn ngữ Hán-Tạng với lượng người nói lớn nhất là các dạng tiếng Trung Quốc (1,3 tỉ người nói), tiếng Myanmar (33 triệu người nói) và nhóm Tạng (8 triệu người nói). Nhiều ngôn ngữ Hán-Tạng chỉ được sử dụng trong những cộng đồng nhỏ tại vùng núi hẻo lánh và rất thiếu thông tin.
Ngữ hệ Hán-Tạng | |
---|---|
Phân bố địa lý | Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á |
Phân loại ngôn ngữ học | Một trong những ngữ hệ chính trên thế giới |
Ngôn ngữ con: |
|
ISO 639-2 / 5: | sit |
Glottolog: | sino1245 |
![]() Phân bố của nhiều nhánh Hán-Tạng khác nhau |
Nhiều phân nhóm cấp thấp đã được xác lập rõ ràng, nhưng cấu trúc cấp cao hơn vẫn chưa rõ ràng. Dù hệ này này thường được chia thành hai nhánh Hán và Tạng-Miến, các nhà nghiên cứu chưa bao giờ xác định được nguồn gốc chung của nhóm phi Hán.
Lịch sửSửa đổi
Mối quan hệ ngôn ngữ học giữa tiếng Trung Quốc, tiếng Tạng, tiếng Myanmar được đề xuất lần đầu vào đầu thế kỷ XIX, và hiện được chấp nhận rộng rãi. Từ mối quan tâm ban đầu về những ngôn ngữ lớn với nền văn học lâu đời, ngữ hệ Hán-Tạng đã mở rộng ra bằng việc thêm vào những ngôn ngữ ít phổ biến hơn, một số trong đó chỉ gần đây mới trở thành, hoặc chưa bao giờ là, ngôn ngữ viết. Tuy nhiên, việc phân loại ngôn ngữ học hệ Hán-Tạng lại ít tiến triển hơn so với ngữ hệ Ấn-Âu hay Nam Á. Những khó khăn bao gồm sự đa dạng lớn về số lượng ngôn ngữ và việc thiếu tương tác, tài liệu, cũng như thông tin. Nhiều thứ tiếng nhỏ chỉ hiện diện các cộng đồng ở vùng núi khó tiếp cận, hoặc ở vùng biên giới nhạy cảm.[1]
Những nghiên cứu đầu tiênSửa đổi
Vào thế kỷ XVIII, nhiều học giả đã nhận thấy nét tương tự giữa tiếng Tạng và tiếng Myanmar, hai ngôn ngữ với nền văn học lớn. Đầu thế kỷ XIX, Brian Houghton Hodgson và một số khác ghi nhận sự tương đồng giữa chúng với nhiều ngôn ngữ tại vùng cao đông bắc Ấn Độ, và Đông Nam Á. Cái tên "Tạng-Miến" được đặt cho nhóm này vào năm 1856 bởi James Richardson Logan; 1858, ông cho thêm nhóm Karen vào.[2][3] Tập ba của tác phẩm Linguistic Survey of India có nội dung dành về các ngôn ngữ Tạng-Miến ở Ấn Độ thuộc Anh.[4]
Các nghiên cứu về ngôn ngữ "Ấn-Trung" tại Đông Nam Á của Logan và một số khác cho thấy chúng gồm bốn nhóm: Tạng-Miến, Thái, Môn–Khmer và Malay-Polynesia. Julius Klaproth vào năm 1823 nhận thấy rằng tiếng Miến, Tạng và Trung Quốc đều có chung hệ thống từ vựng cơ bản mà tiếng Thái, Môn, và Việt khá khác biệt.[5][6] Ernst Kuhn lập ra một ngữ hệ gồm hai nhánh, Trung-Xiêm và Tạng-Miến.[a]August Conrady gọi nhóm này là Ấn-Trung trong phân loại năm 1896. Franz Nikolaus Finck năm 1909 xem nhóm Karen là nhánh thứ ba của hệ "Trung-Xiêm".[7]
Jean Przyluski đặt ra thuật ngữ sino-tibétain, và chọn nó làm tiêu đề cho một chương của Les langues du monde năm 1924.[8]. Dịch ngữ "Sino-Tibetan" xuất hiện trong một ghi chú ngắn của Przyluski và Luce năm 1931.[9]
Nghiên cứu ngôn ngữ văn họcSửa đổi
Tiếng Trung Quốc thượng cổ chắc chắn là ngôn ngữ Hán-Tạng cổ nhất được ghi nhận, với những bản khắc có niên đại từ 1200 TCN và nền văn học đồ sộ. Tuy hệ chữ Trung Quốc không phải bảng chữ cái, nhưng các học giả vẫn tìm cách phục dựng hệ thống âm vị học tiếng Trung Quốc thượng cổ bằng cách so sánh những mô tả về cách phát âm trong những từ điển tiếng Trung Quốc trung đại, những yếu tố âm thanh trong chữ Hán và cách gieo vần trong những bài thơ cổ. Tác phẩm phục dựng hoàn chỉnh đầu tiên là Grammata Serica Recensa của Bernard Karlgren.
Tiếng Tạng có nền văn học viết lớn nhờ sự sáng tạo chữ viết tại vương quốc Thổ Phồn vào thế kỷ thứ VII. Những ghi nhận cổ nhất về tiếng Myanmar (như bản chữ khắc Myazedi thế kỷ XII) có phần hạn chế hơn, nhưng nền văn học tiếng Miến sau đó đã phát triển nhanh chóng. Hai hệ chữ viết của hai ngôn ngữ này đều xuất từ hệ chữ Brahmi của Ấn Độ cổ đại.
Phân loạiSửa đổi
Nhiều nhóm cấp thấp, điển hình như Lô Lô-Miến, đã được phân định rõ, nhưng cấp trúc cấp cao của ngữ hệ này vẫn chưa được xác định.[10][11]
Lý (1937)Sửa đổi
Trong một nghiên cứu 1937, Lý Phương Quế chia hệ này ra thành bốn nhánh:[12][13]
- Ấn-Trung (Hán-Tạng)
Thái và Miêu–Dao được gộp vào vì chúng có tính đơn lập, thanh điệu và một phần từ vựng giống tiếng Trung. Đương thời, thanh điệu vẫn còn được xem như một phương tiện để phân loại ngôn ngữ. Trong cộng đồng học giả ngày nay, nhóm Thái và Miêu-Dao không còn được xếp vào hệ Hán-Tạng nữa.[13] Việc bỏ tiếng Việt (theo Kuhn) khỏi hệ Hán-Tạng được chứng minh năm 1954 khi André-Georges Haudricourt chứng minh hệ thống thanh điệu tiếng Việt phản ảnh phụ âm cuối trong ngôn ngữ Nam Á nguyên thủy.[14]
Benedict (1942)Sửa đổi
Benedict loại tiếng Việt (xếp nó vào hệ Môn–Khmer) cũng như nhóm H'Mông–Miền và Tai–Kadai (xếp chúng vào Austro-Tai) khỏi hệ Hán-Tạng:[15][16]
- Hán-Tạng
- Trung Quốc
- Tạng-Karen
- Karen
- Tạng-Miến
Shafer (1955)Sửa đổi
Shafer không đồng ý với việc chia hệ ra hai nhánh lớn là Hán và Tạng-Miến, ông đề xuất một phân loại chi tiết hơn, gồm sáu nhánh chính:[17][18]
- Hán-Tạng
- Hán
- Dai
- Bod
- Miến
- Baro
- Karen
Shafer không chắc về việc thêm nhóm Dai vào hệ Hán-Tạng, nhưng ông vẫn quyết định xếp nó vào.[19][20]
Van Driem (1997, 2001)Sửa đổi
Van Driem (1997)Sửa đổi
Van Driem, như Shafer, cho rằng cách phân loại "Trung Quốc và phần còn lại" là sai, cho rằng việc các học giả xếp tiếng Trung vào một nhánh riêng trong hệ Hán-Tạng là do lịch sử và văn hóa, chứ không phải do bản chất ngôn ngữ. Ông gọi toàn hệ là "Tạng-Miến".
- Tạng-Miến
Van Driem (2001)Sửa đổi
42 nhóm đã được xác định:[21]Van Driem cũng đưa ra một phân loại liệt kê nhiều nhóm cấp thấp nhưng bỏ ngỏ về những nhóm cấp cao hơn.[22]
- Bod
- Tshangla
- Tây Himalaya
- Tamang
- Newar
- Kiranti
- Lepcha
- Magar
- Chepang
- Raji–Raute
- Dura
- 'Ole
- Gongduk
- Lhokpu
- Siang
- Kho-Bwa
- Hruso
- Digaro
- Midzu
- Tani
- Dhimal
- Bodo–Koch + Konyak
- Ao
- Angami–Pochuri
- Tangkhul
- Zeme
- Meithei
- Karbi
- Hán
- Bạch
- Tujia
- Lô Lô-Miến
- Khương
- Ersu
- Naxi
- rGyalrong
- Kachin–Lui
- Nung
- Karen
- Pyu
- Mru
- Kuki
Ghi chúSửa đổi
- ^ Kuhn (1889), p. 189: "wir das Tibetisch-Barmanische einerseits, das Chinesisch-Siamesische anderseits als deutlich geschiedene und doch wieder verwandte Gruppen einer einheitlichen Sprachfamilie anzuerkennen haben." (also quoted in van Driem (2001), p. 264.)
Tham khảoSửa đổi
- ^ Handel (2008), tr. 422, 434–436.
- ^ Logan (1856), tr. 31.
- ^ Logan (1858).
- ^ Hale (1982), tr. 4.
- ^ van Driem (2001), tr. 334.
- ^ Klaproth (1823), tr. 346, 363–365.
- ^ van Driem (2001), tr. 344.
- ^ Sapir (1925), tr. 373.
- ^ Przyluski & Luce (1931).
- ^ Handel (2008), tr. 426.
- ^ DeLancey (2009), tr. 695.
- ^ Li (1937), tr. 60–63.
- ^ a ă Handel (2008), tr. 424.
- ^ Matisoff (1991), tr. 487.
- ^ Benedict (1942), tr. 600.
- ^ Benedict (1972), tr. 2–4.
- ^ Shafer (1955), tr. 99–108.
- ^ Shafer (1966), tr. 1.
- ^ Shafer (1955), tr. 97–99.
- ^ van Driem (2001), tr. 343–344.
- ^ van Driem (2014), tr. 19.
- ^ van Driem (2001), tr. 403.
- Nguồn tham khảo
- Baxter, William H. (1992), A Handbook of Old Chinese Phonology, Berlin: Mouton de Gruyter, ISBN 978-3-11-012324-1
- Beckwith, Christopher I. (1996), “The Morphological Argument for the Existence of Sino-Tibetan”, Pan-Asiatic Linguistics: Proceedings of the Fourth International Symposium on Languages and Linguistics, January 8–10, 1996, Bangkok: Mahidol University at Salaya, tr. 812–826
- ——— (9 tháng 12 năm 2019), “Introduction”, trong Beckwith, Christopher, Medieval Tibeto-Burman languages, Brill, tr. xiii–xix, ISBN 978-90-04-12424-0
- ——— (9 tháng 12 năm 2019), “The Sino-Tibetan problem”, trong Beckwith, Christopher, Medieval Tibeto-Burman languages, Brill, tr. 113–158, ISBN 978-90-04-12424-0
- Benedict, Paul K. (1942), “Thai, Kadai, and Indonesian: A New Alignment in Southeastern Asia”, American Anthropologist 44 (4): 576–601, JSTOR 663309, doi:10.1525/aa.1942.44.4.02a00040
- ——— (1972), Conspectus.pdf Sino-Tibetan: A Conspectus (PDF), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-08175-7
- Blench, Roger; Post, Mark (2014), “Rethinking Sino-Tibetan phylogeny from the perspective of North East Indian languages”, trong Hill, Nathan W.; Owen-Smith, Thomas, Trans-Himalayan Linguistics, Berlin: Mouton de Gruyter, tr. 71–104, ISBN 978-3-11-031083-2 (preprint)
- Bodman, Nicholas C. (1980), “Proto-Chinese and Sino-Tibetan: data towards establishing the nature of the relationship”, trong van Coetsem, Frans; Waugh, Linda R., Contributions to historical linguistics: issues and materials, Leiden: E. J. Brill, tr. 34–199, ISBN 978-90-04-06130-9
- Burling, Robbins (1983), “The Sal Languages” (PDF), Linguistics of the Tibeto-Burman Area 7 (2): 1–32
- DeLancey, Scott (2009), “Sino-Tibetan languages”, trong Comrie, Bernard, The World's Major Languages (ấn bản 2), Routledge, tr. 693–702, ISBN 978-1-134-26156-7
- van Driem, George (1987), A grammar of Limbu, Mouton grammar library 4, Berlin: Mouton de Gruyter, ISBN 978-3-11-011282-5
- ——— (1997), “Sino-Bodic”, Bulletin of the School of Oriental and African Studies 60 (3): 455–488, doi:10.1017/S0041977X0003250X
- ——— (2001), Languages of the Himalayas: An Ethnolinguistic Handbook of the Greater Himalayan Region, Brill, ISBN 978-90-04-12062-4
- ——— (2005), “Tibeto-Burman vs Indo-Chinese” (PDF), trong Sagart, Laurent; Blench, Roger; Sanchez-Mazas, Alicia, The Peopling of East Asia: Putting Together Archaeology, Linguistics and Genetics, London: Routledge Curzon, tr. 81–106, ISBN 978-0-415-32242-3
- ——— (2007), “The diversity of the Tibeto-Burman language family and the linguistic ancestry of Chinese” (PDF), Bulletin of Chinese Linguistics 1 (2): 211–270
- ——— (2014), “Trans-Himalayan” (PDF), trong Owen-Smith, Thomas; Hill, Nathan W., Trans-Himalayan Linguistics: Historical and Descriptive Linguistics of the Himalayan Area, Berlin: de Gruyter, tr. 11–40, ISBN 978-3-11-031083-2
- Dryer, Matthew S. (2003), “Word order in Sino-Tibetan languages from a typological and geographical perspective”, trong Thurgood, Graham; LaPolla, Randy J., The Sino-Tibetan languages, London: Routledge, tr. 43–55, ISBN 978-0-7007-1129-1
- Finck, Franz Nikolaus (1909), Die Sprachstämme des Erdkreises, Leipzig: B.G. Teubner
- Gong, Hwang-cherng (1980), “A Comparative Study of the Chinese, Tibetan, and Burmese Vowel Systems”, Bulletin of the Institute of History and Philology 51: 455–489
- Hale, Austin (1982), Research on Tibeto-Burman Languages, State-of-the-art report, Trends in linguistics 14, Walter de Gruyter, ISBN 978-90-279-3379-9
- Handel, Zev (2008), “What is Sino-Tibetan? Snapshot of a Field and a Language Family in Flux”, Language and Linguistics Compass 2 (3): 422–441, doi:10.1111/j.1749-818X.2008.00061.x
- Hill, Nathan W. (2012), “The six vowel hypothesis of Old Chinese in comparative context”, Bulletin of Chinese Linguistics 6 (2): 1–69, doi:10.1163/2405478x-90000100
- ——— (2014), “Cognates of Old Chinese *-n, *-r, and *-j in Tibetan and Burmese”, Cahiers de Linguistique Asie Orientale 43 (2): 91–109, doi:10.1163/19606028-00432p02
- Klaproth, Julius (1823), Asia Polyglotta, Paris: B.A. Shubart
- Kuhn, Ernst (1889), “Beiträge zur Sprachenkunde Hinterindiens” (PDF), Sitzungsberichte der Königlichen Bayerischen Akademie der Wissenschaften, Philosophisch-Philologische und Historische Klasse, Sitzung vom 2 März 1889, München, tr. 189–236
- LaPolla, Randy J. (2003), “Overview of Sino-Tibetan morphosyntax”, trong Thurgood, Graham; LaPolla, Randy J., The Sino-Tibetan languages, London: Routledge, tr. 22–42, ISBN 978-0-7007-1129-1
- Lewis, M. Paul; Simons, Gary F.; Fennig, Charles D. biên tập (2015), Ethnologue: Languages of the World , Dallas, Texas: SIL International
- Li, Fang-Kuei (1937), “Languages and Dialects”, trong Shih, Ch'ao-ying; Chang, Ch'i-hsien, The Chinese Year Book, Commercial Press, tr. 59–65, reprinted as Li, Fang-Kuei (1973), “Languages and Dialects of China”, Journal of Chinese Linguistics 1 (1): 1–13, JSTOR 23749774
- Logan, James R. (1856), “The Maruwi of the Baniak Islands”, Journal of the Indian Archipelago and Eastern Asia 1 (1): 1–42
- ——— (1858), &pg=PA68 “The West-Himalaic or Tibetan tribes of Asam, Burma and Pegu”, Journal of the Indian Archipelago and Eastern Asia 2 (1): 68–114
- Matisoff, James A. (1991), “Sino-Tibetan Linguistics: Present State and Future Prospects”, Annual Review of Anthropology 20: 469–504, JSTOR 2155809, doi:10.1146/annurev.anthro.20.1.469
- ——— (2000), “On 'Sino-Bodic' and Other Symptoms of Neosubgroupitis”, Bulletin of the School of Oriental and African Studies 63 (3): 356–369, JSTOR 1559492, doi:10.1017/s0041977x00008442
- ——— (2003), Handbook of Proto-Tibeto-Burman: System and Philosophy of Sino-Tibetan Reconstruction, Berkeley: University of California Press, ISBN 978-0-520-09843-5
- Miller, Roy Andrew (1974), “Sino-Tibetan: Inspection of a Conspectus”, Journal of the American Oriental Society 94 (2): 195–209, JSTOR 600891, doi:10.2307/600891
- Norman, Jerry (1988), Chinese, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-29653-3
- Przyluski, Jean (1924), “Langues sino-tibétaines”, trong Meillet, Antoine; Cohen, Marcel, Les langues du monde, Librairie ancienne Édouard Champion, tr. 361–384
- Przyluski, J.; Luce, G. H. (1931), “The Number 'A Hundred' in Sino-Tibetan”, Bulletin of the School of Oriental and African Studies 6 (3): 667–668, doi:10.1017/S0041977X00093150
- Sagart, Laurent (2005), “Sino-Tibetan–Austronesian: an updated and improved argument”, trong Sagart, Laurent; Blench, Roger; Sanchez-Mazas, Alicia, The Peopling of East Asia: Putting Together Archaeology, Linguistics and Genetics, London: Routledge Curzon, tr. 161–176, ISBN 978-0-415-32242-3
- Sapir, Edward (1925), “Review: Les Langues du Monde”, Modern Language Notes 40 (6): 373–375, JSTOR 2914102
- Shafer, Robert (1952), “Athapaskan and Sino-Tibetan”, International Journal of American Linguistics 18 (1): 12–19, JSTOR 1263121, doi:10.1086/464142
- ——— (1955), “Classification of the Sino-Tibetan languages”, Word (Journal of the Linguistic Circle of New York) 11 (1): 94–111, doi:10.1080/00437956.1955.11659552
- ——— (1966), Introduction to Sino-Tibetan 1, Wiesbaden: Otto Harrassowitz, ISBN 978-3-447-01559-2
- Sharma, Devidatta (1988), A Descriptive Grammar of Kinnauri, Mittal Publications, ISBN 978-81-7099-049-9
- Starosta, Stanley (2005), “Proto-East Asian and the origin and dispersal of languages of east and southeast Asia and the Pacific”, trong Sagart, Laurent; Blench, Roger; Sanchez-Mazas, Alicia, The Peopling of East Asia: Putting Together Archaeology, Linguistics and Genetics, London: Routledge Curzon, tr. 182–197, ISBN 978-0-415-32242-3
- Taylor, Keith (1992), “The Early Kingdoms”, trong Tarling, Nicholas, The Cambridge History of Southeast Asia Volume 1: From Early Times to c. 1800, Cambridge University Press, tr. 137–182, ISBN 978-0-521-35505-6, doi:10.1017/CHOL9780521355056.005
- Thurgood, Graham (2003), “A subgrouping of the Sino-Tibetan languages”, trong Thurgood, Graham; LaPolla, Randy J., The Sino-Tibetan languages, London: Routledge, tr. 3–21, ISBN 978-0-7007-1129-1
- Tournadre, Nicolas (2014), “The Tibetic languages and their classification”, trong Owen-Smith, Thomas; Hill, Nathan W., Trans-Himalayan Linguistics: Historical and Descriptive Linguistics of the Himalayan Area, De Gruyter, tr. 103–129, ISBN 978-3-11-031074-0
- Wheatley, Julian K. (2003), “Burmese”, trong Thurgood, Graham; LaPolla, Randy J., The Sino-Tibetan languages, London: Routledge, tr. 195–207, ISBN 978-0-7007-1129-1
- Yanson, Rudolf A. (2006), “Notes on the evolution of the Burmese phonological system”, trong Beckwith, Christopher I., Medieval Tibeto-Burman Languages II, Leiden: Brill, tr. 103–120, ISBN 978-90-04-15014-0
- Wu, Anqi (1987), Han Zang yu shi dong he wan cheng ti qian zhui de can cui he tong yuan de dong ci ci gen
- Wang, Li (1980), Han Yu shi gao (zhong), Zhong hua shu ju, tr. 221
- Wu, Anqi (2002), Han Zang yu tong yuan yan jiu, Beijing: Zhong yang min zu da xue chu ban she, tr. 9–12, ISBN 978-7810566117
- You, Rujie (1982), Lun Tai yu liang ci zai Han yu nan fang fang yan zhong de di ceng yi cui
- Sun, Hongkai (1996), Lun Zang Mian yu de yu fa xing shi
- Dai, Qingxia (1997), Jing Po yu ci de shuang yin jie hua dui yu fa de ying xiang
- Shi, Lin (1991), Tong yu sheng diao de gong shi biao xian he li shi yan bian
- Xu, Xijian (1987), On the origin and development of noun classifiers in JingPo (PDF), Minzu Yuwen, tr. 27–35 Đã bỏ qua tham số không rõ
|translator-given=
(trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ|translator-surname=
(trợ giúp) - Dai, Qingzia (1994), Zangmian yu geti liangci yanjiu [A study on numeral classifiers in Tibeto-Burman], Beijing: Zhongyang MInzu Xueyuan Chubanshe, tr. 166–181
- Bradley, David (2012), The characteristics of the Burmic family of Tibeto-Burman (PDF), tr. 171–192
- Baron, Stephen P. (1973), The classifier-alone-plus-noun construction: a study in areal diffusion, University of California, San Diego
- LaPolla, Randy J.; Huang, Chenglong (2003), A Grammar of Qiang, with Annotated Texts and Glossary, Berlin: Mouton de Gruyter, ISBN 9783110197273
- Thurgood, Graham; LaPolla, Randy J. (2017), The Sino-Tibetan languages, New York: Routledge, tr. 46, ISBN 978-1-138-78332-4
Liên kết ngoàiSửa đổi
- James Matisoff, "Tibeto-Burman languages and their subgrouping"
- Sino-Tibetan Branches Project (STBP)
- Guillaume Jacques, "The Genetic Position of Chinese"
- Marc Miyake (2014), "Why Sino-Tibetan reconstruction is not like Indo-European reconstruction (yet)"
- Andrew Hsiu (2018), "Linking the Sino-Tibetan fallen leaves"