Parma occidentalis

loài cá

Parma occidentalis là một loài cá biển thuộc chi Parma trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1975.

Parma occidentalis
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Parma
Loài (species)P. occidentalis
Danh pháp hai phần
Parma occidentalis
Allen & Hoese, 1975

Từ nguyên sửa

Tính từ định danh trong tiếng Latinh có nghĩa là "ở phương tây", hàm ý đề cập đến phạm vi của loài cá này nằm ở bờ tây nước Úc.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

P. occidentalis là một loài đặc hữu của Úc và chỉ được tìm thấy ở vùng biển phía tây nước này, từ mũi Leeuwin trải dài đến thị trấn Coral Bay, Tây Úc. P. occidentalis sống tập trung gần những rạn đá ngầm ở độ sâu đến 15 m.[2]

Mô tả sửa

Chiều dài tối đa được ghi nhận ở P. occidentalis là 13 cm.[2] Cá trưởng thành có màu nâu sẫm, bướu lớn trên trán ở những cá thể già. Cá con nhiều màu sắc hơn: vàng cam với ba vạch sọc trắng, lốm đốm các chấm màu xanh lam sáng (tập trung nhiều ở vùng đầu và gần cuống đuôi) và thêm một đốm đen lớn viền xanh trên vây lưng.[3]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 18–21; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 13–16; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[2]

Sinh thái học sửa

Thức ăn chủ yếu của P. occidentalistảo. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng bám vào nền tổ.[2]

Tham khảo sửa

  1. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Parma occidentalis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  3. ^ Parma occidentalis Pomacentridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.

Xem thêm sửa

  • Allen, G. R.; Hoese, D. F. (1975). “A review of the pomacentrid fish genus Parma, with descriptions of two new species”. Records of the Western Australian Museum. 3 (4): 261–293.