Quy Ngưỡng tông
Quy Ngưỡng tông (zh. guī-yǎng-zōng 潙仰宗, ja. igyō-shū) là một dòng Thiền do Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu và đệ tử là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch sáng lập, được xếp vào Ngũ gia thất tông - Thiền tông chính phái của Trung Quốc. Dòng Thiền này tồn tại chỉ khoảng 5 đời và sau đó bị thất truyền.
Quy Ngưỡng tông 潙仰宗 | |
---|---|
Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu, Tổ khai sáng tông Quy Ngưỡng | |
Dòng truyền thừa | |
| |
Thông tin chung | |
Người thành lập | Quy Sơn Linh Hựu, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Lịch sử sửa
Sau khi nhận tâm ấn nơi Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải, vào năm Nguyên Hòa đời Đường, Thiền sư Linh Hựu đến cư trú tại Quy Sơn (nay là huyện Trường Sa, Hồ Nam) một mình trong 7 năm. Về sau, có pháp đệ là Thiền sư Lại An từ chổ Hòa thượng Bá Trượng đến giúp sức Linh Hựu hoằng hóa. Để hoằng dương Thiền pháp, Linh Hựu xây dựng Đồng Khánh tự và từ đó người học đến tham vấn ở Quy Sơn ngày càng đông, thường hơn 1500 vị, nhiều hơn cả môn đình của Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận.[1][2]
Dưới Quy Sơn Linh Hựu lại có nhiều đệ tử nổi danh như Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, Hương Nghiêm Trí Nhàn, Linh Vân Chí Cần,... làm tông phong hoằng truyền rộng rãi. Đặc biệt, Ngưỡng Sơn trước tham học với Đam Nguyên Ứng Chân, sau ngộ đạo nơi Quy Sơn Linh Hựu nên kế thừa cả sở trường của hai vị này là 96 viên tướng (Đam Nguyên) và cơ phong hùng dũng (Quy Sơn), khiến cho Thiền phong trở nên đặc sắc, một mặt giáo hoá nghiêm khắc, mặt khác lại dùng 96 viên tướng để giúp người dễ khai ngộ hơn. Kể từ đó, Quy Ngưỡng tông ra đời.[1][2]
Quy Sơn Linh Hựu và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch được coi là tổ sáng lập của tông này và tên gọi Quy Ngưỡng tông được ghép từ hai chữ đầu trong pháp hiệu của hai vị tổ này mà thành. Địa bàn hoạt động chính của dòng Thiền này là ở Kinh Nam và Nam Đường.[1][3]
Từ Ngưỡng Sơn Huệ Tịch truyền xuống đệ tử là Thiền sư Tây Tháp Quang Mục và Nam Tháp Quang Dũng phân ra thành Tây Tháp phái và Nam Tháp phái. Phái Tây Tháp còn mang ảnh hưởng của dòng Đam Nguyên Ứng Chân trong khi phái Nam Tháp thì mang thuần túy pháp hệ của Thiền sư Quy Sơn. Ngoài ra Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch cũng có một số pháp tử nổi danh khác như Vô Trước Văn Hỷ, Hoắc Sơn Cảnh Thông.[1]
Phái Tây Tháp bắt đầu từ Thiền sư Quang Mục truyền xuống đệ tử là Tư Phúc Như Bảo. Thiền sư Tư Phúc Như Bảo lại truyền cho đệ tử là Tư Phúc Trinh Thúy và Đàm Châu Như Uyển. Còn phái Nam Tháp từ Thiền sư Quang Dũng truyền xuống cho đệ tử là Thiền sư Ba Tiêu Huệ Thanh và Thiền sư Thanh Hóa Toàn Phó. Dưới Thiền sư Ba Tiêu Huệ Thanh có các môn đệ là Thiền sư Hưng Dương Thanh Nhượng, Pháp Mãn U Cốc và Trình Châu Kế Triệt.[1]
Về tác phẩm nổi bật của tông này thì có Quy Sơn Cảnh Sách do Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu soạn và được dùng rất phổ biến trong các tùng lâm từ xa xưa cho đến nay, là cẩm nang tu học cho những người sơ cơ xuất gia.[3]
Dòng Thiền này phát triển mạnh vào cuối đời Đường và đầu đời Ngũ Đại, sang đầu đời Tống thì suy yếu và cuối cùng sáp nhập với tông Lâm Tế. Nó bị thất truyền chỉ sau khoảng 150 năm tồn tại.[2]
Cận đại, Thiền sư Hư Vân chủ trương khôi phục lại các tông phái của Thiền tông. Trong đó, truyền thừa của tông Quy Ngưỡng được đệ tử của Thiền sư Hư Vân là Hoà thượng Tuyên Hoá tiếp nối.[4][5]
Đặc trưng sửa
Một nét đặc biệt của tông này là phương pháp giáo hoá, "đánh thức" môn đệ bằng những biểu tượng được vẽ trong 97 vòng tròn (viên tướng). Hệ thống giáo hoá này được Lục tổ Huệ Năng sử dụng, truyền cho Quốc sư Nam Dương Huệ Trung đến Đam Nguyên Ứng Chân và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Ngày nay cách sử dụng viên tướng này đã thất truyền nhưng có lẽ đã gây ảnh hưởng lớn đến sự hình thành của Thập mục ngưu đồ (mười bức tranh chăn trâu) và Động Sơn ngũ vị của Thiền sư Động Sơn Lương Giới. 97 viên tướng được sử dụng như mật ngữ, và các vị Thiền sư có kinh nghiệm Giác ngộ thâm sâu sử dụng nó để trau dồi kinh nghiệm với nhau. Vì biết được khả năng tiêu hoại khi truyền hệ thống này bừa bãi - nếu bị lạm dụng trở thành một trò chơi - nên các vị giữ kín bí mật này, chỉ truyền cho những môn đệ hàng thượng căn.[6]
Thiền sư Ngưỡng Sơn trả lời khi được hỏi vì sao sư thấy người đến liền vẽ một vòng tròn trong đó viết chữ "Ngưu" (zh. 牛) (Định Huệ dịch):[6]
“ | "Cái ấy cũng là việc không đâu. Nếu chợt hội được thì cũng chẳng phải từ bên ngoài đến, nếu không hội thì quyết chắc là không biết. Ta hỏi lại ông: Bậc lão túc các nơi - ngay trên thân các ông - chỉ cái gì là Phật tính? Nói là phải hay nín là phải, hay chẳng nói chẳng nín là phải, hay lại đều là không phải? Nếu ông nhận nói là phải thì như là người mù sờ đuôi voi. Nếu ông nhận nín là phải thì như người mù sờ tai voi. Nếu ông nhận chẳng nói chẳng nín là phải thì như người mù sờ vòi voi. Nói vật vật đều phải thì như người mù sờ nhằm bốn chân voi. Nếu bảo đều chẳng phải tức là ném bỏ con voi ấy, rơi vào không kiến. Chỗ thấy của các người mù kia chỉ ở nơi danh mạo sai biệt trên con voi... Lại nói: 'Đạo vốn không hình tướng, trí huệ tức là đạo. Người có kiến giải này gọi là chân Bát-nhã.' Người có mắt sáng thấy được toàn thể con voi thì thật tính cũng như vậy." | ” |
Về Thiền lý, tông Qui Ngưỡng chia thế giới chủ quan và khách quan ra làm 3 thứ sinh: Tưởng sinh, Tướng sinh, và Lưu chú sinh, mỗi thứ đều có sự phủ định.
- Tưởng sinh: Chỉ cho những suy tư chủ quan, cho rằng hễ có tâm tư duy thì đều là nhơ nhớp tạp loạn, cần phải xa lìa mới được giải thoát.
- Tướng sinh: Chỉ cho cảnh sở duyên, tức thế giới khách quan, cũng cần phải phủ định. Cho nên trong sách có câu kệ:
- “Ánh sáng chiếu vào rõ đường về
- Mộng tối tan rồi hai mắt sáng."
- Lưu chú sinh: Chỉ cho thế giới chủ quan, khách quan biến hóa vô thường, âm thầm trôi chảy, theo nhau không dứt. Nếu có thể nhìn thẳng vào dòng thác tư duy ấy mà cắt đứt được thì chứng đắc trí viên minh, đạt đến cảnh giới tự tại.[1]
Lí luận tu hành của tông này là theo yếu chỉ “Lí sự như như” của các Thiền sư Đạo Nhất, Hoài Hải, cho rằng vạn vật hữu tình đều có đủ tính Phật, nếu minh tâm kiến tính thì có thể thành Phật.[1]
Thiền phong của Quy Ngưỡng tông là “Phương viên mặc khế” (lặng lẽ khế hợp tất cả), cách dạy người học phần nhiều dùng đối đáp để đưa đến chỗ thầm hợp (ngộ).[1]
Truyền thừa sửa
1/ Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu (Sơ tổ)
2/ Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn
2/ Thiền sư Linh Vân Chí Cần
2/ Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (Nhị tổ)
3/ Thiền sư Vô Trước Văn Hỉ
3/ Thiền sư Hoắc Sơn Cảnh Thông
3/ Thiền sư Nam Tháp Quang Dũng (Nam Tháp phái)
- 4/ Thiền sư Ba Tiêu Huệ Thanh
- 5/ Thiền sư Hưng Dương Thanh Nhượng
- 5/ Thiền sư Pháp Mãn U Cốc
- 5/ Thiền sư Trình Châu Kế Triệt
- 4/ Thiền sư Thanh Hóa Toàn Phó
3/ Thiền sư Tây Tháp Quang Mục (Tây Tháp phái)
- 4/ Thiền sư Tư Phúc Như Bảo
- 5/ Thiền sư Tư Phúc Trinh Thúy
- 5/ Thiền sư Đàm Châu Như Uyển[7]
Tham khảo sửa
- ^ a b c d e f g h “Tự điển - quy ngưỡng tông”. phatgiao.org.vn. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2023.
- ^ a b c “Tự điển - Quy Ngưỡng Tông”. phatgiao.org.vn. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2023.
- ^ a b Nguyễn Nam Trân biên dịch (2009). Lịch Sử Thiền Tông Trung Quốc.
- ^ “Tự điển - hư vân”. phatgiao.org.vn. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Những nét chính về cuộc đời Hòa thượng Tuyên Hóa”. phatgiao.org.vn. 21 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2023.
- ^ a b “TU DIEN PHAT HOC”. www.rongmotamhon.net. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2023.
- ^ Hư Vân (2012). Phật Tổ Đạo Ảnh - Tập 1. Nxb Hồng Đức.
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên | pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán |