Choi Soo-young
- Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Choi.
Choi Soo-young (Hangul: 최수영; sinh ngày 10 tháng 2 năm 1990), thường được biết đến với nghệ danh Sooyoung, là một nữ ca sĩ và diễn viên người Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc nữ Girls' Generation. Ngoài hoạt động âm nhạc, cô còn đảm nhận nhiều vai diễn trong nhiều bộ phim truyền hình và điện ảnh. Tháng 10 năm 2017, Cô rời SM Entertainment để tập trung cho đam mê diễn xuất nhưng vẫn là thành viên của SNSD.
Choi Soo-young | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
최수영 | |||||||
Sooyoung vào năm 2024 | |||||||
Sinh | Choi Soo-young 10 tháng 2, 1990 Cheongdam-dong, Gangnam-gu, Seoul, Hàn Quốc | ||||||
Quốc tịch | Hàn Quốc | ||||||
Trường lớp | Đại học Chung-Ang | ||||||
Nghề nghiệp | |||||||
Năm hoạt động | 2002-nay | ||||||
Chiều cao | 172 cm (5 ft 8 in) | ||||||
Cân nặng | 50 kg (110 lb) | ||||||
Sự nghiệp âm nhạc | |||||||
Thể loại | |||||||
Nhạc cụ | Thanh nhạc | ||||||
Năm hoạt động | 2002 – nay | ||||||
Hãng đĩa |
| ||||||
Hợp tác với |
| ||||||
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||
Hangul | 최수영 | ||||||
Hanja | |||||||
Romaja quốc ngữ | Choe Su-yeong | ||||||
McCune–Reischauer | Ch'oe Suyŏng | ||||||
Hán-Việt | Thôi Tú Anh | ||||||
Thông tin YouTube | |||||||
Kênh | |||||||
Năm hoạt động | 2019-nay | ||||||
Thể loại | Âm nhạc, Đời sống | ||||||
Lượt đăng ký | 326.000 (tính đến 11/12/2020) | ||||||
| |||||||
Ngày 7 tháng 5 năm 2019, Sooyoung gia nhập công ty quản lý hiện tại Saram Entertainment với tư cách diễn viên để tập trung cho sự nghiệp diễn xuất.
Tiểu sử
sửaSooyoung sinh ra vào ngày 10 tháng 2 năm 1990 tại Seoul, Hàn Quốc.[1] Cô có một chị gái là diễn viên nhạc kịch Choi Soo-jin.[2] Sooyoung được SM Entertainment phát hiện thông qua hệ thống tuyển chọn SM Open Audition khi đang học lớp năm[3] nhưng sau đó giành giải nhất trong cuộc thi Korea-Japan Ultra Idol Duo năm 2002 và ra mắt tại Nhật Bản với tư cách là một trong hai thành viên của nhóm nhạc Route θ.[4] Nhóm đã phát hành ba đĩa đơn trước khi chấm dứt hoạt động vào năm 2003.[5] Sau đó Sooyoung quay trở lại SM Entertainment và được chọn làm thành viên nhóm nhạc nữ Girls' Generation.
Tháng 2 năm 2009, Sooyoung tốt nghiệp trường Trung học nữ sinh Jungshin.[6] Tháng 5 năm 2014, cô và Yuri, một thành viên khác của Girls' Generation, được bổ nhiệm làm đại sứ của trường Đại học Chung-Ang khi đang là sinh viên khoa sân khấu và điện ảnh tại đây.[7] Hai người tốt nghiệp cùng nhau vào tháng 2 năm 2016.[8]
Sự nghiệp
sửaÂm nhạc
sửaNăm 2005, Sooyoung thể hiện bài hát "I Am" cho phiên bản tiếng Hàn của bộ phim hoạt hình Nhật Bản Inuyasha.[9] Năm 2007, cô chính thức ra mắt tại Hàn Quốc với tư cách là thành viên nhóm nhạc nữ Girls' Generation. Năm 2008, Sooyoung và thành viên cùng nhóm Yuri thể hiện bài hát nhạc trot "Kkok" cho bộ phim truyền hình Working Mom của đài SBS.[10] Năm 2009, cô góp mặt trong bài hát "Feeling Only You" của nhóm nhạc nam The Blue cùng với thành viên cùng nhóm Tiffany.[11] Năm 2014, Sooyoung phát hành bài hát "Wind Flower", nhạc phim của bộ phim truyền hình My Spring Days mà cô thủ vai chính.[12]
Năm 2011, Sooyoung viết lời cho bài hát "How Great Is Your Love" nằm trong album phòng thu thứ ba The Boys của Girls' Generation.[13] Năm 2013, cô và các thành viên cùng nhóm Yuri và Seohyun viết lời cho bài hát "Baby Maybe" nằm trong album phòng thu thứ tư I Got a Boy của nhóm.[14] Năm 2016, Sooyoung viết lời cho phiên bản tiếng Hàn của bài hát "What Do I Do" nằm trong mini-album đầu tay I Just Wanna Dance của thành viên cùng nhóm Tiffany,[15] cũng như cho bài hát "Sailing (0805)" của Girls' Generation được phát hành nhằm kỉ niệm 9 năm ngày ra mắt công chúng của nhóm.[16]
Ngày 9 tháng 10 năm 2017, Sooyoung không tiếp tục gia hạn hợp đồng với công ty chủ quản SM Entertainment quản SM Entertainment tuy nhiên cô vẫn là thành viên của Girls' Generation.[17]
Vào tháng 11 năm 2017, Sooyoung gia nhập Echo Global Group sau khi hợp đồng của cô với SM Entertainment kết thúc. Với việc thay đổi nhãn hiệu, các hoạt động trong tương lai của cô với Girls 'Generation vẫn còn được thảo luận.
Vào tháng 12 năm 2018, Sooyoung đã phát hành đĩa đơn solo "Winter Breath", đây là bài hát đầu tiên của cô được phát hành kể từ khi rời SM Entertainment, với video âm nhạc của bài hát được phát trực tuyến cùng ngày. Sooyoung đã ra mắt tài khoản Twitter và YouTube chính thức của mình để kỷ niệm ngày phát hành đĩa đơn.
Vào tháng 5 năm 2019, Sooyoung đã ký hợp đồng với công ty mới Saram Entertainment.
Diễn xuất
sửaNăm 2007, Sooyoung và thành viên cùng nhóm Yuri đảm nhận hai vai phụ trong bộ phim truyền hình Unstoppable Marriage. Năm 2008, cô tham gia vào bộ phim điện ảnh hài lãng mạn Hello, Schoolgirl bên cạnh các diễn viên chính Lee Yeon-hee và Kangin, đồng thời xuất hiện trong bộ phim truyền hình Oh! My Lady cùng với các thành viên cùng nhóm Jessica và Hyoyeon.[18] Năm 2011, cô xuất hiện với tư cách khách mời trong Paradise Ranch, bộ phim truyền hình của đài SBS do nghệ sĩ cùng công ty Changmin và nữ diễn viên Lee Yeon-hee thủ vai chính.[19]
Tháng 3 năm 2012, Sooyoung đảm nhận vai Eujin trong bộ phim truyền hình The 3rd Hospital bên cạnh các diễn viên Kim Seung-woo, Oh Ji-ho, Kim Min-jung[20] và nhận được những phản hồi tích cực từ cả người xem lẫn các nhà phê bình.[21][22] Cô cũng xuất hiện với tư cách khách mời trong bộ phim truyền hình A Gentleman's Dignity của đài SBS.
Năm 2013, Sooyoung đảm nhận vai nữ chính Gong Min-young trong bộ phim truyền hình Dating Agency: Cyrano của kênh tvN bên cạnh nam diễn viên Lee Jong-hyuk.[23] Kịch bản của phim được dựa trên bộ truyện tranh Cyrano Agency và là phần tiếp theo của bộ phim điện ảnh cùng tên. Phim khởi quay vào giữa tháng 4 và bắt đầu phát sóng từ cuối tháng 5.[24]
Năm 2014, Sooyoung đảm nhận vai nữ chính Lee Bom trong bộ phim truyền hình My Spring Days của đài MBC bên cạnh nam diễn viên Kam Woo-sung. Nhân vật của cô, một cô gái từng mặc bệnh hiểm nghèo và được cấy ghép tim, vô tình gặp chồng và hai con của người phụ nữ đã hiến tạng cho mình sau khi qua đời trong một vụ tai nạn.[25] Với vai diễn này, Sooyoung đã giành chiến thắng ở hạng mục nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim truyền hình ngắn tại lễ trao giải MBC Drama Awards năm 2014[26] và hạng mục nữ diễn viên chính xuất sắc tại lễ trao giải Korean Drama Awards năm 2015.[27]
Năm 2015, Sooyoung đảm nhận vai nữ chính Jung ah-yeon, một cô gái bị mù, trong bộ phim truyền hình đặc biệt Perfect Sense. Phim được phát sóng trên kênh KBS2 vào năm 2016.[28] Năm 2016, cô đảm nhận vai nữ chính bên cạnh nam diễn viên Seo In-guk trong bộ phim truyền hình Đội đặc nhiệm số 38.[29] Sooyoung đã được xác nhận là sẽ thủ vai nữ chính trong bộ phim truyền hình Polyclinic Doctor.[30]
Năm 2018, Sooyoung đã tham gia bộ phim Hàn-Nhật Memories of a Dead End, bộ phim hài hành động Girl Cops, và loạt phim truyền hình hài lãng mạn So I Married a Anti-fan, dựa trên manhwa cùng tên, cùng với Choi Tae-joon.
Dẫn chương trình
sửaTrước khi ra mắt vùng với Girls' Generation, Sooyoung từng là VJ cho chương trình Hello Chat của Mnet bên cạnh Kangin, thành viên nhóm nhạc nam Super Junior.[4] Từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 1 năm 2008, cô dẫn chương trình cho chương trình phát thanh Chunbangjichuk Radio cùng với Sungmin, một thành viên khác của Super Junior.[31]. Từ tháng 5 đến tháng 11 năm 2009, Sooyoung dẫn chương trình cho Fantastic Duo, một chương trình dành cho trẻ em của đài MBC, bên cạnh Oh Sang-jin và Kim Je-dong.[32] Ngày 20 tháng 8 năm 2011, Sooyoung và các thành viên cùng nhóm Tiffany và Yuri dẫn chương trình cho sự kiện K-Pop All Star Live được tổ chức tại Niigata, Nhật Bản.[33] Tháng 5 năm 2012, Sooyoung và Yoon Do-hyun trở thành người dẫn chương trình mới cho TV Entertainment Tonight của đài SBS.[34] Năm 2013, Sooyoung dẫn chương trình cho một số sự kiện như liên hoan phim quốc tế Puchon lần thứ 17[35] và lễ trao giải SBS Entertainment Awards.[36] Năm 2014, Sooyoung dẫn chương trình cho đêm chung kết cuộc thi Hoa hậu Hàn Quốc cùng với Oh Sang-jin.[37]
Đời tư
sửaNgày 28 tháng 8 năm 2011, trên đường đến tham dự một sự kiện từ thiện, Sooyoung và chị gái của mình gặp phải một vụ tai nạn xe hơi do lỗi của một người điều khiển xe máy.[38] Vụ va chạm khiến cô phải nhập viện do rạn xương cụt và không thể tham gia concert tại Tokyo của SM Town cũng như concert tại Đài Loan của Girls' Generation. Cô quay trở lại hoạt động cùng nhóm vào ngày 26 tháng 11 năm 2011.[39]
Ngày 3 tháng 1 năm 2014, Sooyoung và nam diễn viên Jung Kyung-ho xác nhận đang hẹn hò, cả 2 đã bắt đầu quan hệ yêu đương từ tháng 9 năm 2012.[40][41][42]
Danh sách đĩa nhạc
sửaRoute θ
sửaNăm | Tên bài hát | Album |
---|---|---|
2002 | "Start" | Start |
"Kimi Ni Ae Ta Kara..." | ||
"Waku Waku It's Love" | Waku Waku It's Love | |
"Go Go Happy" | ||
2003 | "Painting" | Painting |
"Onna No Ko Magic" |
Bài hát
sửaNăm | Tên bài hát | Album |
---|---|---|
2005 | "I Am" | — |
2008 | "Kkok" (với Yuri) |
Working Mom OST |
2009 | "Feeling Only You" (The Blue hợp tác với Tiffany và Sooyoung) |
The First Memories |
2014 | "Wind Flower" | My Spring Days OST |
2022 | "To My Star" | If you wish upon me OST |
Danh sách phim
sửaPhim điện ảnh
sửaNăm | Tên phim | Vai | Ghi chú |
---|---|---|---|
2008 | Hello, Schoolgirl | Jeong Da-jeong | Vai phụ |
2012 | I AM. | Chính mình | Phim tài liệu về SM Town[43] |
2015 | SMTown The Stage | Chính mình | Phim tài liệu về SM Town[44] |
2019 | Memories Of A Dead End | Yumi | Phim điện ảnh hợp tác Hàn-Nhật |
Miss And Mrs. Cops | Jangmi | Vai phụ | |
2020 | New Year Blues | Oh Wol | Vai phụ |
Phim truyền hình
sửaNăm | Tên phim | Kênh | Vai | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
2008 | Unstoppable Marriage | KBS | Choi Soo-young | Vai phụ |
2010 | Oh! My Lady | SBS | Chính mình | Khách mời; tập 7 |
2011 | Paradise Ranch | SBS | Cô Soo | Khách mời; tập 3 |
2012 | A Gentleman's Dignity | SBS | Chính mình | Khách mời; tập 5 |
The 3rd Hospital | tvN | Lee Eui-jin | Vai chính | |
2013 | Dating Agency: Cyrano | tvN | Gong Min-young | Vai chính |
2014 | My Spring Days | MBC | Lee Bom-yi | Vai chính |
2016 | Perfect Sense | KBS | Jung Ah-yeon | Vai chính |
38 Revenue Collection Unit | OCN | Cheon Sung-hee | Vai chính | |
2017 | Man In The Kitchen | MBC | Lee Roo-ri | Vai chính |
2020 | Tell me what you saw | OCN | Cha Soo-young | Vai chính |
Run On | JTBC | Seo Dan-Ah | Thứ chính | |
2021 | So I Married an Anti-Fan | tvN | Lee Geun Young | Vai chính |
2022 | If you wish upon me | KBS | Seo Yeon Joo | Vai chính |
Please send me a fan letter | MBC | Han Kang Hee | Vai chính | |
2023 | Not Others | ENA | Kim Jin Hee | Vai chính |
Giải thưởng và đề cử
sửaNăm | Giải thưởng | Hạng mục | Được đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|---|
2012 | Mnet 20's Choice Awards | Best 20's Style | Chính mình | Đề cử |
KBS Music Awards | Best Female Group Member | Chính mình | Đề cử | |
2013 | Korea Drama Awards lần thứ 6 | Best New Actress | Dating Agency: Cyrano | Đề cử |
Style Icon Awards lần thứ 6 | Best K-Style Award | Chính mình | Đoạt giải[45] | |
SBS Entertainment Awards | New Rookie Award (MC Category) | TV Entertainment Tonight | Đoạt giải[46] | |
2014 | MBC Drama Awards | Excellence Award, Actress in a Miniseries | My Spring Days | Đoạt giải[26] |
Best Couple Award | Đề cử[47] | |||
2015 | Korea Drama Awards lần thứ 8 | Excellence Award, Actress | Đoạt giải[48] | |
2022 | BIFF x Marie Claire Asia Star Award 2022 | Face of Asia award | Chính mình | Đoạt giải |
MBC Drama Awards | Excellence Award, Actress in a short daily | Please send me a fan letter | Đoạt giải |
Chú thích
sửa- ^ Mark Russell (ngày 29 tháng 4 năm 2014). K-Pop Now!: The Korean Music Revolution. Tuttle Publishing (bằng tiếng Anh). tr. 72. ISBN 978-1-4629-1411-1.
- ^ “SNSD's Sooyoung and her sister love the same man on a TV series”. StarNews (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
- ^ “수영 "4일간 SM직원 4명에게 길거리캐스팅 됐다"”. Newsen (bằng tiếng Hàn). ngày 28 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b “소녀시대 수영, VJ시절-일본유닛 '과거사진' 눈길”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 2 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Route θ Discography” (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2004.
- ^ “'고교 졸업' 소녀시대의 윤아-수영, "3월부터 캠퍼스에서 만나요"”. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 11 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
- ^ “'09학번 수영' 중앙대 출신 연예인 누가 있나”. Hankyung (bằng tiếng Hàn). ngày 5 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Park Shin Hye, Yuri, and Sooyoung become college graduates!”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2016.
- ^ Choi Sooyoung 최수영 – " I Am" (Korean Ver.) Inuyasha Opening – YouTube
- ^ “곡 정보: 꼭”. MelOn (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
- ^ “곡 정보: 너만을 느끼며 (Feat. 티파니&수영)”. MelOn (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Girls' Generation's Sooyoung lends her sweet voice for 'My Spring Day' OST, 'Windflower'”. allkpop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Details revealed on SNSD's 12-track album, "The Boys"”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Sooyoung, Yuri and Seohyun Wrote Lyrics + Tiffany and Taeyeon Sings Duet in Upcoming Album”. Soompi (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 16 tháng 6 năm 2016). “Tiffany Reflects on Solo Debut & U.S. Ambitions: 'It's Just The Beginning'”. FuseTV. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2016.
- ^ Jang Kyung-guk (ngày 26 tháng 7 năm 2016). “'데뷔 9주년' 소녀시대, 팬송 '그 여름 (0805)' 공개”. Sports DongA (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2016.
- ^ “티파니·수영·서현, SM 떠난다…"소녀시대 해체는 안해"” [Tiffany, Sooyoung and Seohyun leave SM... "Girls' Generation will not disband"] (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2017.
- ^ “소녀시대, 최시원과 의리 지키며 '오 마이 레이디'서 카메오 출연”. Newsen (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2010.
- ^ “소녀시대 수영, 파라다이스목장 깜짝출연 '미친존재감 발산'”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ “'제3병원' 소시 수영의 귀여운 매력에 첫 대본 연습 현장 분위기 훈훈”. AsiaToday (bằng tiếng Hàn). ngày 9 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ “Girls' Generation's Sooyoung receives praises for her acting skills”. Daily Kpop News (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Girls' Generation's Sooyoung Receiving Recognition For Her Great Acting”. Soompi (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “이종혁·수영, tvN '연애조작단: 시라노' 출연 확정…로맨틱 호흡 '기대'”. Daum (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ “이종혁·이천희·수영, '연애조작단'주연 호흡”. StarNews (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 4 năm 2013.
- ^ Ock Hyun-ju (ngày 8 tháng 10 năm 2014). “Idols increasingly dominate dramas”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b “태연·써니, 수영 MBC연기대상 우수 연기상 축하”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
- ^ “'코리아드라마어워즈' 수영 "검증 안 된 제게 기회…정말 감사드린다"”. TVDaily (bằng tiếng Hàn). ngày 9 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ “[단독] 소녀시대 수영, '퍼펙트 센스' 주연…1년 만에 연기활동 컴백”. SportsDonga (bằng tiếng Hàn). ngày 13 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ “서인국·수영·마동석, OCN '38 사기동대' 주연”. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
- ^ Choi Na-young (21 tháng 9 năm 2016). “소시 수영, 드라마 '폴리클닥터' 여주 발탁..'의사 변신'”. Osen (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2016.
- ^ “상큼·발랄한 모습으로 아시아 평정할 거예요”. Munhwa Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 6 tháng 8 năm 2007.
- ^ “'소시' 수영, '환상의 짝꿍' 전격 투입… 오상진과 MC 호흡”. EDaily (bằng tiếng Hàn). ngày 29 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Yuri, Tiffany & Sooyoung to MC 'Kpop All Star Live in Niigata'”. Daily Kpop News (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2012.
- ^ “'한밤' 새MC 윤도현·수영, 첫방송 안정진행 '호평'”. StarNews (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
- ^ “[포토] 신현준-수영, 부천국제판타스틱영화제 MC 등장 (부천영화제)”. SportsDonga (bằng tiếng Hàn). ngày 18 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “[포토엔]하하-수영-윤도현 'SBS 연예대상 MC가 한 자리에'”. Newsen (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “'2014 미스코리아' 수영-오상진, 더블 MC 맡아…커플룩 연출 '눈길'”. NewsWay (bằng tiếng Hàn). ngày 16 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “수영 교통사고 '충격', 소녀시대 활동 중단?”. Newskorea (bằng tiếng Hàn). ngày 28 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2013.
- ^ “소녀시대 수영, 천추골 골절 회복중으로 컴백 이상 무”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 26 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ Lee, Claire (ngày 3 tháng 1 năm 2014). “Actor Jung Kyung-ho and SNSD's Sooyoung dating”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2014.
- ^ “Soo-young and Jung Kyung-ho Officially an Item”. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Chuyện tình yêu đẹp như mơ của SooYoung SNSD và nam diễn viên Jung Kyung Ho”.
- ^ “Documentary Shows Top K-Pop Singers Behind the Scenes”. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2012.
- ^ “'SM타운' 공연실황 다큐, 8월13일 국내개봉 확정”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 9 tháng 7 năm 2015.
- ^ “'2013 SIA' 수영-최진혁, '베스트 케이 스타일' 동반 수상”. TVReport (bằng tiếng Hàn). ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ “SBS 연예대상 '신인상' 수영, 수상 인증샷 "영광의 신인상"”. Hankooki (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
- ^ “2014 MBC Drama Award Nominees for "Best Couple"”. MBC (bằng tiếng Hàn). tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
- ^ “김수현vs주원, 2015 코리아드라마어워즈 대상 격돌”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 9 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2015.
Liên kết ngoài
sửaWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Choi Soo-young. |
- Trang web chính thức
- Choi Soo-young trên Instagram
- Choi Soo-young trên YouTube
- Choi Soo-young trên IMDb
- Choi Soo-young trên HanCinema