Symphorus nematophorus

loài cá
(Đổi hướng từ Symphorus)

Symphorus nematophorus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Symphorus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1860.

Symphorus nematophorus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Symphorus
Günther, 1872
Loài (species)S. nematophorus
Danh pháp hai phần
Symphorus nematophorus
(Bleeker, 1860)
Danh pháp đồng nghĩa

Từ nguyên sửa

Không rõ từ nguyên của chi. Theo các nhà ngư học hiện tại, từ này có thể được ghép từ hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: súmphusis (σύμφῠσῐς; “cùng nhau phát triển”) và phérō (φέρω, “mang theo”), hàm ý đề cập đến các gai và tia mềm phát triển tạo thành một vây lưng liên tục. Còn từ định danh được ghép từ nêmatos (νῆματος; “sợi chỉ”) và phérō, đề cập đến một (hoặc nhiều) tia mềm ở trước vươn dài thành sợi ở cá con.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

Từ biển Andaman, S. nematophorus được phân bố trải dài về phía đông đến FijiTonga, mở rộng ở phần lớn khu vực Đông Nam Á, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam đến bờ bắc ÚcNouvelle-Calédonie.[1][3] S. nematophorus cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam.[4][5]

S. nematophorus sống tập trung trên các rạn san hô ở độ sâu từ ít nhất là 20 đến 100 m.[6]

Mô tả sửa

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. nematophorus là 100 cm.[6] Cá trưởng thành màu nâu xám hoặc đỏ nhạt với các vạch sọc dọc màu đậm. Cá con màu nâu cam nhạt với các sọc ngang màu xanh óng ở hai bên lườn. Vây lưng có các tia trước vươn dài thành sợi.

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–11; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số vảy đường bên: 53–59.[7]

Sinh học sửa

Thức ăn của S. nematophorus là các loài cá nhỏ hơn.[6] S. nematophorus có thể sống đến 36 năm.[8]

Thương mại sửa

S. nematophorus được đánh bắt trên khắp các vùng biển thuộc phạm vi của chúng. Do có thể gây ra ngộ độc ciguatera mà loài cá này đã bị cấm bán ở một số nước như ÚcVanuatu. S. nematophorus được đánh giá là một trong những loài cá độc nhất ở Vanuatu.[1]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c Russell, B.; Lawrence, A.; Myers, R.; Carpenter, K. E.; Smith-Vaniz, W. F. Symphorus nematophorus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa: e.T194347A2317915. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T194347A2317915.en. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Mesoprion nematophorus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  4. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  5. ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  6. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Symphorus nematophorus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  7. ^ Gerald R. Allen (1985). “Symphorus” (PDF). Vol.6. Snappers of the world. Roma: FAO. tr. 160–161. ISBN 92-5-102321-2.
  8. ^ Currey, Leanne M.; Simpfendorfer, Colin A.; Williams, Ashley J. (2009). “Resilience of reef fish species on the Great Barrier Reef and in Torres Strait” (PDF). Project Milestone Report: 1–32.