Thái Dương Cảnh Huyền

Thái Dương Cảnh Huyền (zh. 太陽警玄 tàiyáng jǐngxuán, ja. taiyō keigen, 943-1027) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, Tổ thứ 6 của Tào Động Tông. Sư là pháp tử của Thiền Sư Lương Sơn Duyên Quán. Đệ tử kế thừa của Sư là Thiền sư Đầu Tử Nghĩa Thanh.

Thiền sư
thái dương cảnh huyền
太陽警玄
Tên khai sinhhọ Trương
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáoPhật giáo
Trường pháiĐại thừa
Tông pháiThiền tông
Lưu pháiTào Động tông
Sư phụLương Sơn Duyên Quán
Đệ tửHưng Dương Thanh Phẩu
Đầu Tử Nghĩa Thanh
Thông tin cá nhân
Sinh
Thế danhhọ Trương
Ngày sinh943
Nơi sinhGiang Hạ
Mất 
Thụy hiệuMinh An đại sư
Ngày mất1027
Nơi mấtNúi Thái Dương
Giới tínhnam
Nghề nghiệptì-kheo
 Cổng thông tin Phật giáo

Mặc dù vậy, sư và Đầu Tử Nghĩa Thanh lại chưa bao giờ gặp mặt trực tiếp. Đầu Tử Nghĩa Thanh được phó pháp Tào Động trung gian qua Phù Sơn Pháp Viễn (thuộc Lâm Tế Tông, nối pháp Diệp Huyện Quy Tỉnh) theo hình thức "Đại phó". Do lúc sinh tiền, sư không có đệ tử thừa kế và lo rằng sau khi mình mất Tông Tào Động sẽ bị thất truyền nên sư trao lại y bát, giày cỏ của mình nhờ Phù Sơn là một đệ tử từng có thời gian tham học với mình (Phù Sơn đã nhận ấn khả từ Diệp Huyện nên dĩ nhiên không thể nối pháp sư được) tìm giúp người thừa kế. Về sau, Phù Sơn gặp Đầu Tử và căn dặn Đầu Tử nối pháp Tông Tào Động, nhờ đó mà Tông Tào Động không bị thất truyền. Tại Trung QuốcNhật Bản, người ta coi Đầu Tử Nghĩa Thanh là đệ tử nối pháp trực tiếp của sư.[1]

Cơ duyên và hành trạng sửa

Sư họ Trương, là người ở Giang Hạ. Năm 19 tuổi, sư thọ giới cụ túc. Kế đó, sư đến tham học với thiền sư Lương Sơn Duyên Quán.[2]

Một hôm, sư hỏi Lương Sơn: "Bạch hoà thượng! Thế nào là đạo tràng vô tướng?" Lương Sơn chỉ tượng Quán Âm, nói: "Đây là bức tranh ta vẽ lúc còn ở ẩn." Sư định trả lời thì Lương Sơn hỏi: "Vậy cái này là có tướng, cái kia là vô tướng à?" Sư chợt tỏ ngộ, liền sụp lạy. Lương Sơn hỏi: "Sao ông không nói một câu nào hết vậy?" Sư đáp: "Nói tức không lời, e rằng chỉ trên bút giấy." Lương Sơn khen ngợi: "Lời nói này về sau sẽ được ghi lại trên bia đá."[3]

Sư có làm bài kệ trình sở đắc của mình (Thích Thanh Từ dịch):

Hán văn
我昔初機學道迷
萬水天山覓見知
明今辨古終難會
直說無心轉更疑
蒙師點出秦時鏡
照見父母未生時
如今覺了何所得
夜放烏雞帶雪飛
Phiên âm
Ngã tích sơ cơ học đạo mê
Vạn thủy thiên sơn mích kiến tri
Minh kiêm biện cổ chung nan hội
Trực thuyết vô tâm chuyển cánh nghi.
Mong Sư điểm xuất Tần thời cảnh
Chiếu kiến phụ mẫu vị sanh thì
Như kim giác liễu hà sở đắc
Dạ phóng ô kê đới tuyết phi.
Dịch nghĩa
Con xưa học đạo cứ sai lầm
Muôn núi ngàn sông kiếm thấy nghe
Luận cổ bàn kim càng khó hội
Nói thẳng vô tâm lại sinh nghi
Nhờ thầy chỉ rõ thời Tần kính
Soi thấy cha mẹ lúc chưa sinh
Hiện nay giác ngộ đâu còn đắc
Ðêm thả gà đen trong tuyết bay.

Lương Sơn nghe kệ khen: "Có thể làm hưng thịnh tông Tào Ðộng." và sư được Lương Sơn ấn khả. Không lâu sau, Lương Sơn truyền pháp cho sư nối pháp Tông Tào Động và phó chúc đại sự.[1]

Sau đó, Sư từ giã thầy rồi đến trụ trì ở núi Thái Dương. Sư sống khổ hạnh, nghiêm trì giới luật, chỉ ăn ngày một bữa và cư trú tại núi Thái Dương trong 50 năm chưa bao giờ xuống núi.[3]

Niên hiệu Thiên Thánh năm thứ năm (1027), ngày 16 tháng 7, Sư từ biệt chúng. Ba hôm sau, Sư viết kệ gửi Thị lang Vương Thự:

Ta tuổi tám mươi lăm
Tu nhân đến thế ấy
Hỏi ta đi về đâu
Tướng đỉnh trọn khó thấy.

Sư viết xong liền tịch, hưởng thọ 85 tuổi, vua sắc hiệu Minh An Đại Sư.[3][4]

Nguồn tham khảo sửa

  1. ^ a b “Tự điển - Thái Dương Cảnh Huyền”. phatgiao.org.vn. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  2. ^ Hư Vân (2012). Phật Tổ Đạo Ảnh - Tập 2. Nxb Hồng Đức.
  3. ^ a b c “THIỀN SƯ KỈNH HUYỀN”. thuongchieu.net. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  4. ^ Lý Việt Dũng biên tập (2004). Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Nxb Hồng Đức.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán