Thủ Sơn Tỉnh Niệm (chữ Hán: 首山省念, 926–993) là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Đường và đầu đời Tống. Sư thuộc Tông Lâm Tế và là đệ tử xuất sắc nhất của Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu. Sư là người có công gìn giữ tông Lâm Tế trước nguy cơ tàn lụi. Trước khi gặp sư, Thiền sư Phong Huyệt đã tỏ nỗi lo rằng chính pháp của Lâm Tế sẽ biến mất cùng với mình vì không tìm được người nối pháp.

Thiền sư
thủ sơn tỉnh niệm
首山省念
Tên khai sinhhọ Địch
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáoPhật giáo
Trường pháiĐại thừa
Tông pháiThiền tông
Lưu pháiLâm Tế tông
Sư phụPhong Huyệt Diên Chiểu
Đệ tửPhần Dương Thiện Chiếu
Diệp Huyện Quy Tỉnh
Ngũ Tổ
Lâm Tế tông
Tiền nhiệmPhong Huyệt Diên Chiểu
Kế nhiệmPhần Dương Thiện Chiếu
Thông tin cá nhân
Sinh
Thế danhhọ Địch
Ngày sinh926
Nơi sinhLai Châu, Sơn Đông
Mất 
Ngày mất993
Nơi mấtThiền viện Bảo Ứng
Giới tínhnam
Nghề nghiệptì-kheo
Quốc tịchnhà Tống
 Cổng thông tin Phật giáo

Sư có 16 truyền nhân, trong đó Thiền sư Phần Dương Thiện Chiếu xuất sắc nhất – người có công đưa Thiền Tông lên vị trí hàng đầu giữa các tông phái Phật giáo đời Tống.

Cơ duyên ngộ đạo sửa

họ Địch, sinh năm 926 (Bính Tuất). Quê sư tại vùng Lai Châu , tỉnh Sơn Đông.

Sư xuất gia ở chùa Nam Thiền tại quê hương. Sau khi thọ giới cụ túc, sư đi tham vấn khắp các thiền hội, thường thầm tụng kinh Pháp Hoa, nên có biệt danh là "Niệm Pháp Hoa". Sau Sư đến tham học nơi Thiền sư Phong Huyệt và làm tri khách ở đây. Cơ duyên ngộ đạo của sư được trong Truyền Đăng lục như sau:

Một hôm, sư đứng hầu, Phong Huyệt than với sư: "Bất hạnh! Đạo Lâm Tế ta sắp chìm lặng vậy". Sư nghe vậy thưa: "Xem trong đại chúng đâu không có người kế thừa Hoà thượng?". Phong Huyệt bảo: "Người thông minh thì nhiều, kẻ kiến tính rất ít". Sư thưa: "Như con, Hoà thượng xem thế nào?". Phong Huyệt bảo: "Ta tuy trông mong ở ngươi đã lâu nhưng vẫn e ngại đắm mến kinh này không thể buông rời". Sư thưa: "Việc này có thể làm được, mong nghe yếu chỉ ấy". Phong Huyệt thượng đường, nhắc lại việc đức Phật dùng cặp mắt như sen xanh nhìn đại chúng, bèn hỏi: "Chính khi ấy hãy bảo nói cái gì? Nếu bảo chẳng nói mà nói, lại là chôn vùi thánh trước. Hãy bảo nói cái gì?". Sư liền phủi áo đi ra. Phong Huyệt ném gậy rồi trở về phương trượng. Thị giả chạy theo Phong Huyệt hỏi: "Niệm Pháp Hoa sao chẳng đáp lời Hoà thượng?" Phong Huyệt bảo: "Niệm Pháp Hoa đã hội".

Hoằng pháp sửa

Sư đến trụ ở Thủ Sơn, Nhữ Châu (nay là Lâm Nhữ, Hà Nam) làm trụ trì đời thứ nhất nên mọi người gọi sư là Thủ Sơn thiền sư. Tại đây, sư ra sức xiển dương tông phong Lâm Tế tông.

Về sau, sư đến trụ trì ở Quảng Giáo Thiền Viện tại núi Bảo An. Kế đến, sư dời đến Bảo Ứng Thiền Viện. Niên hiệu Thuần Hoá năm thứ ba (992) đời Tống, giờ Ngọ ngày mùng 4 tháng chạp, sư nói kệ:

Năm nay sáu mươi bảy

Già bệnh tuỳ duyên hãy đuổi theo

Năm nay ghi lại việc năm tới

Năm tới ghi chắc việc ngày nay.

Đến năm sau (993) đúng ngày giờ nói trước, sư từ biệt chúng và nói kệ:

Các con dối lăng xăng

Lỗi nhiều cát sông Hằng

Quan Âm chỉ Di-lặc

Văn-thù biết làm sao?

Sau khi im lặng giây lát, sư lại nói kệ:

Thế giới bạch ngân thân sắc vàng

Tình với phi tình một tính chân

Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu

Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.

Mặt trời vừa xế, sư ngồi yên thị tịch, thọ 68 tuổi. Sư để lại cuốn Nhữ Châu Thủ Sơn Niệm Hòa Thượng Ngữ Lục (Chữ Hán: 汝州首山念和尚語錄, 1 quyển).

Pháp Ngữ sửa

Ngày khai đường có vị tăng hỏi: "Thầy xướng gia khúc tông phong ai, Nối pháp người nào?". Sư đáp: "Thiếu Thất trước núi xem bàn tay". Tăng hỏi: "Lại thỉnh hồng âm hoà một tiếng?". Sư đáp: "Như nay cũng cần toàn thể biết".

Sư dạy chúng: "Phật pháp không nhiều, chỉ vì nơi các ông tự tin chẳng đến. Nếu các ông tự tin thì ngàn vị Thánh ra đời cũng không làm gì được các ông. Vì sao như thế? Vì trước mặt các ông không có chỗ mở miệng. Chỉ vì các ông không có tự tin, chạy ra ngoài tìm cầu. Sở dĩ đến được trong ấy bèn là Phật Thích-ca, sẽ cho các ông ba mươi gậy. Tuy nhiên như thế, kẻ sơ cơ hậu học vào bằng đạo lí nào? Hãy hỏi các ông được cùng ấy hay chưa?". Sư im lặng giây lâu nói tiếp: "Nếu được cùng ấy mới là vô sự".

Một giai thoại của sư được nhắc lại trong công án thứ 43 của Vô môn quan:

Sư dơ gậy trúc lên nói": Này các ông, nếu gọi là gậy trúc thì xúc phạm, không gọi là gậy trúc thì trái nghịch, vậy gọi là gì?".

Tham khảo sửa

  • Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.