Thủ Sơn Tỉnh Niệm

Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm (chữ Hán: 首山省念; 926–993) là thiền sư Trung Quốc tông Lâm Tế, đệ tử xuất sắc nhất của thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu. Sư là người gìn giữ tông Lâm

Tế trước nguy cơ tàn lụi. Thiền sư Phong Huyệt đã tỏ nỗi lo rằng chính pháp của Lâm Tế sẽ thiên hoá cùng với mình vì không tìm được người nối dõi. Nhưng sau đó sư đến hội Phong Huyệt và được ấn chứng. Trong thời loạn (hậu Đường sang đời Tống), sư ẩn cư không để lộ tung tích. Sau khi bình yên lại, sư mới bắt đầu tụ chúng và giáo hoá. Sư có 16 truyền nhân, trong đó thiền sư Phần Dương Thiện Chiếu xuất sắc nhất, người đã đưa Thiền tông lên hàng đầu trong các môn phái đạo Phật đời Tống.

Cơ duyên và hành trạngSửa đổi

Sư họ Địch, sinh năm Bính Tuất, quê tại Lai Châu , tỉnh Sơn Đông.

Sư xuất gia tại chùa Nam Thiền tại quê hương . Vừa thụ giới cụ túc xong, sư diêu du khắp nơi và thường tụng kinh Pháp hoa nên Sư cũng có biệt danh là Niệm Pháp Hoa.

Sau khi thọ giới cụ túc, sư đi tham vấn khắp các thiền hội, thường thầm tụng kinh Pháp Hoa, nên có biệt danh là "Niệm Pháp Hoa". Sau Sư đến tham học nơi Thiền sư Phong Huyệt và ngộ đạo. Được ghi lại trong Truyền Đăng lục:

Sau, sư đến pháp hội của Thiền sư Phong Huyệt và được cử làm Tri khách. Một hôm, Sư đứng hầu, Phong Huyệt than với Sư: Bất hạnh! Đạo Lâm Tế ta sắp chìm lặng vậy. Sư nghe vậy thưa: Xem trong đại chúng đâu không có người kế thừa Hoà thượng? Phong Huyệt bảo: Người thông minh thì nhiều, kẻ kiến tính rất ít. Sư thưa: Như con, Hoà thượng xem thế nào? Phong Huyệt bảo: Ta tuy trông mong ở ngươi đã lâu nhưng vẫn e ngại đắm mến kinh này không thể buông rời. Sư thưa: Việc này có thể làm được, mong nghe yếu chỉ ấy. Phong Huyệt thượng đường, nhắc lại việc đức Phật dùng cặp mắt như sen xanh nhìn đại chúng, bèn hỏi: Chính khi ấy hãy bảo nói cái gì? Nếu bảo chẳng nói mà nói, lại là chôn vùi thánh trước. Hãy bảo nói cái gì? Sư liền phủi áo đi ra. Phong Huyệt ném gậy trở về phương trượng. Thị giả chạy theo Phong Huyệt hỏi: Niệm Pháp Hoa sao chẳng đáp lời Hoà thượng? Phong Huyệt bảo: Niệm Pháp Hoa đã hội.

Hoằng phápSửa đổi

Sau sư đến Thủ Sơn, Nhữ Châu (Lâm Nhữ, Hà Nam) đời thứ nhất nên mọi người gọi sư là Thủ Sơn thiền sư. Tại đây sư ra sức xiển dương tông phong Lâm Tế tông.

Về sau, sư lại đến trụ trì ở Quảng Giáo Thiền Viện (廣敎禪院) tại Bảo An Sơn (寳安山), rồi đến Bảo Ứng Thiền Viện (寳應禪院).

Đời Tống, niên hiệu Thuần Hoá năm thứ ba (992), giờ Ngọ ngày mùng 4 tháng chạp, Sư nói kệ:

Năm nay sáu mươi bảy

Già bệnh tuỳ duyên hãy đuổi theo

Năm nay ghi lại việc năm tới

Năm tới ghi chắc việc ngày nay.

Đến năm sau đúng ngày giờ nói trước, Sư từ biệt chúng và nói kệ:

Các con dối lăng xăng

Lỗi nhiều cát sông Hằng

Quan Âm chỉ Di-lặc

Văn-thù biết làm sao?

Sau khi im lặng giây lát, Sư lại nói kệ:

Thế giới bạch ngân thân sắc vàng

Tình với phi tình một tính chân

Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu

Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.

Mặt trời vừa xế, Sư ngồi yên thị tịch, thọ 68 tuổi.

Sư để lại cuốn Nhữ Châu Thủ Sơn Niệm Hòa Thượng Ngữ Lục (汝州首山念和尚語錄) 1 quyển.

Pháp NgữSửa đổi

Ngày khai đường có vị tăng hỏi: Thầy xướng gia khúc tông phong ai, Nối pháp người nào? Sư đáp: Thiếu Thất trước núi xem bàn tay. Tăng hỏi: Lại thỉnh hồng âm hoà một tiếng? Sư đáp: Như nay cũng cần toàn thể biết.

Sư dạy chúng: Phật pháp không nhiều, chỉ vì nơi các ông tự tin chẳng đến. Nếu các ông tự tin thì ngàn vị Thánh ra đời cũng không làm gì được các ông. Vì sao như thế? Vì trước mặt các ông không có chỗ mở miệng. Chỉ vì các ông không có tự tin, chạy ra ngoài tìm cầu. Sở dĩ đến được trong ấy bèn là Phật Thích-ca, sẽ cho các ông ba mươi gậy. Tuy nhiên như thế, kẻ sơ cơ hậu học vào bằng đạo lí nào? Hãy hỏi các ông được cùng ấy hay chưa?«Sư im lặng giây lâu nói tiếp: »Nếu được cùng ấy mới là vô sự.

Một giai thoại của sư được nhắc lại trong Vô môn quan, công án 43. Sư dơ gậy trúc lên nói: Này các ông, nếu gọi là gậy trúc thì xúc phạm, không gọi là gậy trúc thì trái nghịch, vậy gọi là gì?.

Tham khảoSửa đổi

  • Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.