U-229 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 8.352 GRT, đồng thời gây hư hại cho một chiếc khác tải trọng 3.670 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Đại Tây Dương, U-229 bị tàu khu trục Anh HMS Keppel đánh chìm ở vị trí về phía Đông Nam Greenland vào ngày 22 tháng 9, 1943.[1]

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-229
Đặt hàng 7 tháng 12, 1940
Xưởng đóng tàu Germaniawerft, Kiel
Kinh phí 4.439.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 659
Đặt lườn 3 tháng 11, 1941
Hạ thủy 20 tháng 8, 1942
Nhập biên chế 3 tháng 10, 1942
Tình trạng Bị tàu khu trục Anh HMS Keppel đánh chìm trong Đại Tây Dương, 22 tháng 9, 1943[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 49 281
Chỉ huy:
  • Trung úy Robert Schetelig
  • 3 tháng 10, 1942 – 22 tháng 9, 1943
Chiến dịch:
  • 3 chuyến tuần tra:
  • 1: 20 tháng 2 – 17 tháng 4, 1943
  • 2: 11 tháng 5–7 tháng 6; 2–3 tháng 8, 1943
  • 3: 31 tháng 8 – 22 tháng 9 1943
Chiến thắng:
  • 2 tàu buôn bị đánh chìm
    (8.352 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (3.670 GRT)

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa
 
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

sửa

U-229 được đặt hàng vào ngày 7 tháng 12, 1940,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 3 tháng 11, 1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 8, 1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 3 tháng 10, 1942[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Robert Schetelig.[2]

Lịch sử hoạt động

sửa

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

U-229 khởi hành từ Kiel vào ngày 20 tháng 2, 1943 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh.[4] Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để đi đến hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Iceland và Greenland.[6] Ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland, lúc 01 giờ 04 phút ngày 10 tháng 3, nó tấn công Đoàn tàu SC 121, đánh chìm chiếc tàu buôn Anh SS Nailsea Court 4.946 GRT,[7] đồng thời gây hư hại cho chiếc Coulmore 3.670 GRT.[8] Đến ngày 5 tháng 4, ở vị trí về phía Nam Reikjavik, nó lại tấn công Đoàn tàu HX 231 và đánh chìm tàu buôn Thụy Điển Vaalaren 3.406 GRT.[9] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng St. Nazaire bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 17 tháng 4.[4]

Chuyến tuần tra thứ hai

sửa

U-229 xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày 11 tháng 5 cho chuyến tuần tuần tra thứ hai để hoạt động tại vùng biển giữa Bắc Đại Tây Dương.[4] Vào ngày 17 tháng 5, trong vịnh Biscay, nó bị một thủy phi cơ PBY Catalina thuộc Liên đội 190 Không quân Hoàng gia Anh (RAF) ném bốn quả bom tấn công.[10] Những hư hại phải chịu đựng buộc chiếc tàu ngầm phải cắt ngắn chuyến tuần tra và đi đến cảng Bordeaux, Pháp vào ngày 7 tháng 6 để sửa chữa.[4]

Chuyến tuần tra thứ ba - Bị mất

sửa

Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Bordeaux sang cảng La Pallice, La Rochelle cùng tại bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào đầu tháng 8,[4] U-229 xuất phát từ đây vào ngày 31 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương.[11] Ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland vào ngày 22 tháng 9, nó bị tàu khu trục Hải quân Hoàng gia Anh phát hiện và tấn công bằng mìn sâu và hải pháo, rồi húc chìm tại tọa độ 54°36′B 36°25′T / 54,6°B 36,417°T / 54.600; -36.417; toàn bộ 50 thành viên thủy thủ đoàn của U-229 đều tử trận.[2]

"Bầy sói" tham gia

sửa

U-229 từng tham gia bốn bầy sói:

  • Neuland (4 – 6 tháng 3, 1943)
  • Ostmark (6 – 11 tháng 3, 1943)
  • Stürmer (11 – 16 tháng 3, 1943)
  • Leuthen (15 – 23 tháng 9, 1943)

Tóm tắt chiến công

sửa

U-229 đã đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 8.352 GRT, đồng thời gây hư hại cho một chiếc khác tải trọng 3.670 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[12]
10 tháng 3, 1943 Coulmore   United Kingdom 3.670 Bị hư hại
10 tháng 3, 1943 Nailsea Court   United Kingdom 4.946 Bị đánh chìm
5 tháng 4, 1943 Vaalaren   Sweden 3.406 Bị đánh chìm

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b Kemp (1999), tr. 146–147.
  2. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-229”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-229”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-229 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Nailsea Court - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Coulmore - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2024.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Vaalaren - Swedish Motor merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2024.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-229 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2024.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-229 - Third patrol”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-229”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs – The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 171, 182, 219–220. ISBN 0-304-35203-9.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

sửa
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-229”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 229”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.