Vũ Cẩn
Vũ Cẩn hoặc Vũ Cận[1](1522-?), tự Đôn Phu (hoặc Thuần Phu, Thuần Phủ),[2] là danh thần triều Mạc và triều Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam.
Vũ Cẩn | |
---|---|
Xuân Giang hầu | |
Tên chữ | Đôn Phu |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1522 |
Nơi sinh | Bắc Ninh |
Mất | không rõ |
Giới tính | nam |
Học vấn | Tiến sĩ Nho học |
Chức quan | Tả thị lang bộ Hộ, Thượng thư bộ Hộ |
Quốc tịch | Đại Việt |
Thời kỳ | nhà Mạc, nhà Lê trung hưng |
Tác phẩm | Tinh thiều kỷ hành |
Tiểu sử
sửaVũ Cẩn sinh năm Nhâm Ngọ (1522) đời Lê Chiêu Tông (ở ngôi: 1516-1522) tại làng Lương Xá, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh [3].
Năm Bính Thìn (1556) đời Mạc Phúc Nguyên (ở ngôi: 1546-1561), ông thi đỗ Tiến sĩ, được bổ chức quan, trải đến chức Tả thị lang bộ Hộ.
Tháng Chạp năm Canh Thìn (tháng 1 năm 1581) đời Mạc Mậu Hợp (ở ngôi: 1562-1592), ông được cử làm Phó sứ đi tuế cống nhà Minh (Trung Quốc). Khi về nước, ông được thăng Thượng thư bộ Hộ, tước Xuân Giang hầu [4].
Sau khi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, ông ở lại tiếp tục làm quan (vẫn được giữ nguyên chức tước cũ) dưới triều Lê Trung hưng [4].
Vũ Cẩn mất năm nào không rõ.
Ông là em ruột Đình nguyên Hoàng giáp Vũ Cảnh, và là chú ruột Trạng nguyên Vũ Giới [5].
Sự nghiệp văn chương
sửaVũ Cẩn để lại tập Tinh thiều kỷ hành (Ghi chép hành trình trên cỗ xe sứ giả), gồm 2 quyển, và 100 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục do Lê Quý Đôn biên tập.
Phần lớn thơ ông đều là những bài tức cảnh sinh tình trên còn đường đi sứ, giống như những thiên bút ký đường dài ghi lai tâm trạng tha hương của một sứ giả. Nhiều bài có cảm hứng mới mẻ, lời trang nhã, tình cảm thuần hậu [5].
Trích giới thiệu một bài:
|
|
Sách tham khảo
sửa- Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
- Bùi Duy Tân, mục từ: "Vũ Cẩn" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Trần Thị Băng Thanh (chủ biên), Văn học thế kỷ XV-XVII, mục từ: " Vũ Cẩn ". Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004.
Chú thích
sửa- ^ Ghi theo Từ điển văn học (bộ mới, tr.2031) và Văn học thế kỷ XV-XVII (tr.936). Trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Trần Văn Giáp chép là Vũ Cận (tr. 907).
- ^ Văn học thế kỷ XV-XVII (tr.936) ghi là Đôn Phu. Từ điển văn học (bộ mới, tr.2031) ghi là Thuần Phu. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (tr. 907) ghi là Thuần Phủ.
- ^ Ghi theo Từ điển văn học (bộ mới, tr.2031) và Văn học thế kỷ XV-XVII (tr.936).
- ^ a b Theo Văn học thế kỷ XV-XVII (tr. 936) Và Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (tr. 907).
- ^ a b Theo Bùi Duy Tân, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 2021.
- ^ Lời dẫn này là của tác giả. Chú thích: Núi Dũ Lĩnh nằm giữa địa giới Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc). Núi có rừng mai nên còn có tên là Mai Lĩnh (núi Mai). Khoảng giữa núi này là đất Lĩnh Trung, chia khí hậu mùa xuân tại đây thành hai phần: phía Bắc Dũ Lĩnh thì lạnh, hoa mai nở chậm; phía Nam Dũ Lĩnh thì ấm áp, hoa mai nở sớm hơn, vì vậy nên gọi là "Dũ lĩnh phân xuân" (theoVăn học thế kỷ XV-XVII. tr. 944).
- ^ Nam Hùng là một phủ thuộc Quảng Đông, thuộc đạo Lĩnh Nam (Trung Quốc).
- ^ Con đường có nhiều cây thông.