Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mir Osman Ali Khan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Infobox royalty | name = Osman Ali Khan<!-- Please do not add titles in this section --> | title = <!--Please do add titles in this section -…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 07:13, ngày 8 tháng 9 năm 2020


Mir Osman Ali Khan (Asaf Jah VI), là Nizam (người cai trị) thứ 10 và cũng là cuối cùng của Phiên quốc Hyderabad của Ấn Độ thuộc Anh, và được xem là một trong những người giàu có nhất thế giới mọi thời đại. Ông lên ngôi vào này 11/08/1911, ở tuổi 25 và cai trị vương quốc Hyderabad đến năm 1948, khi bị sáp nhập vào Ấn Độ.

Osman Ali Khan
Tập tin:Mir osman ali khan.JPG
Nizam of Hyderabad
Tại vịNizam: 29 August 1911– 17 September 1948
Titular Nizam:[cần dẫn nguồn] 17 September 1948 – 24 February 1967[1]
Đăng quang18 September 1911
Tiền nhiệmMahbub Ali Khan, Asaf Jah VI
Kế nhiệmMonarchy abolished
(Pretender: Mukarram Jah)
Thông tin chung
Sinh(1886-04-06)6 tháng 4 năm 1886
Purani Haveli, Hyderabad, Hyderabad State, British Indian Empire
(now in Telangana, India)
Mất24 February 1967 (age 80)
King Kothi Palace, Hyderabad, Andhra Pradesh, India
(now in Telangana, India)Bản mẫu:Not verified in body
Phối ngẫuDulhan Pasha Begum and others
Hậu duệ149[2][3][4] or 34 children[5][6][7][nguồn không đáng tin?][8] including Azam Jah, and Moazzam Jah.
Thân phụSir Mahbub Ali Khan, Asaf Jah VI
Thân mẫuAmat-uz-Zahrunnisa BegumBản mẫu:Contradict-inline

Đầu đời

Ông được sinh ra tại Cung điện Masarrat Mahal, là con trai thứ 2 của Mahbub Ali Khan (Asaf Jah VI) – Nizam thứ 9 của Hyderabad. Ông được giáo dục riêng biệt và thạo tiếng Urdu, tiếng Ba Tư, tiếng Ả Rậptiếng Anh. Năm 1898, với sự tiến cử của Phó vương Ấn Độ, Lord Elgin, Brian Egerton đã đến làm gia sư tiếng Anh cho ông trong 2 năm, dưới sự hướng dẫn của Egerton, các quan chức và cố vấn người Anh khác, ông mau chóng được trang bị kiến thức để trở thành một quý ông của tầng lớp cao nhất thời đó.

Đồng minh trung thành của Anh

Nizam VII được trao tặng danh hiệu “Đồng minh trung thành của Vương quốc Anh” sau Thế chiến thứ nhất, vì những đóng góp tài chính của ông cho quân đội Anh trong chiến tranh. Trong đó có việc ông chi tiền tặng những chiếc máy bay Airco DH.9A cho Phi đội số 110. Trên thân những chiếc máy bay này đều được ghi dòng chữ “món quà của Osman Ali”, và đơn vị này được gọi là “Phi đội Hyderabad”. Ông cũng gửi tăng cho Hải quân Hoàng gia Anh kinh phí để đóng 1 tàu khu trục lớp N, và nó được gọi là HMAS Nizam, được đưa vào hoạt động năm 1940 và sau chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Úc.

Thành tựu

Trong thời gian cầm quyền 37 năm của ông, điện được giới thiệu, đường sắt, đường bộ và đường hàng không được phát triển. Ông cũng là một nhà từ thiện, quyên góp hàng triệu rupee cho các tổ chức giáo dục và tôn giáo khác nhau trên khắp Ấn Độ. Ông dành tới 11% ngân sách của nhà nước cho giáo dục. Bậc giáo dục tiểu học được bắt buộc và cung cấp miễn phí cho người nghèo. Ông đã quyên góp 1 triệu rupee cho Đại học Banaras Hindu, 500 nghìn rupee cho Đại học Hồi giáo Aligarh và 300 nghìn rupee cho Viện Khoa học Ấn Độ.

Năm 1918, Nizam VII đã đưa ra quyết định thành lập trường Đại học Osmania, trường đại học đầu tiên dùng tiếng Urdu làm ngôn ngữ giảng dạy. Khuôn viên hiện tại được hoành thành vào năm 1934. Sân bay Begumpet được xây dựng vào những năm 1930, ban đầu có được sử dụng làm sân bay nội địa và quốc tế cho Nizam’s Deccan Airways, hãng hàng không sớm nhất Ấn Độ thuộc Anh.

Hyderabad là bang duy nhất ở Ấn Độ thuộc Anh, người cầm quyền được phép phát hành tiền giấy và đây cùng là bang duy nhất ở Liên bang Ấn Độ ngày nay có tiền tệ riêng của mình, gọi là rupee Hyderabad. Năm 1941, Nizam VII thành lập Ngân hàng của riêng mình, với tên gọi “Ngân hàng Nhà nước Hyderabad”. Ngân hàng này quản lý “Osmania Sikka”, tiền của Nhà nước Hyderabad. Năm 1956, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ tiếp quản ngân hàng này làm công ty con đầu tiên và đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Hyderabad, đến năm 2017 bị sáp nhập vào Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ.

Sau trận lụt Musi năm 1908, giết chết ước tính 50.000 người, Nizam VII đã cho xây dựng 2 hồ chứa nước để ngăn các trận lũ lớn khác, đó là hồ Osman Sagar (46 km2) và hồ Himayat Sagar (20 km2).

Nizam là người cai trị cấp cao nhất ở Ấn Độ, là một trong 5 nhà cai trị phiên quốc được hưởng 21 tiếng súng đại bác chào mừng, và được phong là "Hoàng thân cao quý" và "Đồng minh trung thành của Vương quốc Anh ". Nizam VII đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân liên minh giữa con trai đầu lòng Azam JahCông chúa Durrushehvar của Đế quốc Ottoman. Vào thời điểm đó, người ta tin rằng liên minh hôn nhân giữa Nizam và Caliph bị phế truất sẽ dẫn đến sự xuất hiện của một nhà cai trị Hồi giáo có thể được các cường quốc trên thế giới chấp nhận thay cho các Sultan Ottoman.

Người giàu nhất thế giới

Nizam sở hữu khối tài sản khổng lồ đến mức ông được miêu tả trên trang bìa của tạp chí TIME vào ngày 22/02/1937, được mô tả là người giàu nhất thế giới. Ông đã sở hữu viên kim cương Jacob - 185 cara, và nhiều trang sức đắc giá khác bằng ngọc lục bảo, kim cương, rubi, ngọc trai... Trong những ngày còn là Nizam, ông được coi là người giàu nhất thế giới, có khối tài sản ước tính khoảng 2 tỷ dollar Mỹ vào đầu những năm 1940 (36,5 tỷ đô la ngày nay). Vào thời điểm đó, kho bạc của chính phủ Liên minh độc lập mới của Ấn Độ chỉ thu về hàng năm là 1 tỷ USD. Có tin đồn rằng Nizam VII đã tặng 5 tấn vàng cho Liên bang Ấn Độ, nhưng theo giới chức thì đây không phải là sự thật. Nhưng trên thực tế thi Nizam đã đầu tư 425 kg vàng giúp khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế của Ấn Độ vào tháng 10/1965.

Quà cưới cho Nữ hoàng Elizabeth

Năm 1947, Nizam đã tặng một món quà trang sức bằng kim cương, bao gồm cả vương miện và vòng cổ, cho Nữ hoàng Elizabeth nhân dịp kết hôn của bà. Những chiếc trâm cài và vòng cổ từ món quà này vẫn được Nữ hoàng đeo và được gọi là vòng cổ “Nizam of Hyderabad”.

Bị cưởng bức gia nhập liên minh với Ấn Độ

Sau khi Ấn Độ được Anh trao trả độc lập vào năm 1947, lãnh thổ này được chia thành 2 quốc gia là Ấn ĐộPakistan. Các phiên quốc được quyền tự do chọn gia nhập Pakistan hay Ấn Độ. Nizam VII cai trị một lãnh thổ rộng lớn đến 214.190 km2 với dân số hơn 16 triệu người, nên ông không muốn gia nhập bất cứ chính thể nào và muốn trở thành một vương quốc độc lập trong Khối Liên hiệp Anh, nhưng đề xuất này bị Chính phủ Anh từ chối, nhưng ông vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán dưới hình thức này với chính phủ Ấn Độ lẫn Pakistan. Ông đã chứng minh rằng người dân Hyderabad phản đối bất kỳ thoả thuận nào với Ấn Độ. Cuối cùng, Ấn Độ quyết định xâm lược và chiếm Hyderabad vào năm 1948, trong một chiến dịch có tên mã là Chiến dịch Polo. Dưới sự giám sát của Thiếu tướng Jayanto Nath Chaudhuri, một sư đoàn của Quân đội Ấn Độ và một lữ đoàn xe tăng đã xâm lược Hyderabad. Sau khi bị sáp nhận vô Ấn Độ, ông trở thành Rajpramukh của bang Hyderabad từ năm 1950 đến 1956, sau đó nhà nước bị chia cắt.

Qua đời

Nizam VII qua đời vào thứ 6, ngày 24/02/1967, theo di chúc được để lại thì thi hài của ông sẽ được chôn cất tại Masjid-e Judi, một nhà thờ Hồi giáo nơi chôn cất mẹ ông, đối diện với Cung điện Vua Kothi. Chính phủ tuyên bố quốc tang vào ngày 25/02/1967, ngày chôn cất ông. Các văn phòng chính phủ của bang sẽ đóng cửa như một dấu hiệu của sự tôn trọng, trong khi quốc kỳ Ấn Độ được treo ngang trên tất cả các toà nhà chính phủ trong toàn bang.

Tài liệu của Bảo tàng Nizam đã mô tả rằng: "Các đường phố và vỉa hè của thành phố ngập tràn những mảnh vỡ của vòng đeo tay bằng thủy tinh khi một số lượng lớn phụ nữ đã phá vỡ vòng đeo tay của họ để tang, điều mà phụ nữ Telangana thường làm theo phong tục Ấn Độ về cái chết của một người thân." "Lễ tang của Nizam là cuộc gặp gỡ phi tôn giáo, phi chính trị lớn nhất trong lịch sử của Ấn Độ cho đến thời điểm đó." Hàng triệu người thuộc mọi tôn giáo và các vùng khác nhau của bang đã đến Hyderabad bằng xe lửa, xe buýt và cả xe bò để được nhìn thấy lần cuối cùng thi hài của Nizam, ước tính có đến 1 triệu người đã tham gia vào đám rước thi hài Nizam VII.

Tính lập dị

Ngoài sự giàu có, ông còn nổi tiếng vì sự lập dị, vì thường tự đan tất và xin thuốc lá từ khách.

  1. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên titular
  2. ^ Mohla, Anika (21 tháng 10 năm 2012). “From richest to rags in seven generations”. The New Indian Express. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015.
  3. ^ Nadeau, Barbie Latza (30 tháng 1 năm 2017). “Whose $40 Million Diamond Is It? An Italian Family Feud”. The Daily Beast (bằng tiếng English). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2017.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  4. ^ Paran Balakrishnan (23 tháng 2 năm 2014). “Return of the Royals”. The Telegraph (bằng tiếng Anh). Kolkota. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2017.
  5. ^ Mir Ayoob Ali Khan (19 tháng 2 năm 2018). “Last surviving son of Nizam, Fazal Jah, dies”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2018.
  6. ^ “Last Surviving son of seventh Nizam passes away in Hyderabad”. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2018.
  7. ^ “Menace of Black Money: Bring back Nizam's wealth first” (bằng tiếng English). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  8. ^ “Nizam's heirs seek Pakistani intervention to unfreeze bank account”. India Today. 20 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2018.