Alaungpaya
Alaungpaya (tiếng Myanmar: အလောင်းဘုရား, phát âm [ʔəláʊɰ̃ pʰəjá]) là vị vua đầu tiên của triều Konbaung trong lịch sử Myanmar, trị vì từ năm 1752 đến năm 1760. Ông đã xây dựng Đế quốc Miến Điện thứ 3 đầu thế kỷ 18 tồn tại cho đến khi bị quân Anh thôn tính vào ngày 1 tháng 1 năm 1886. Ông đã qua đời vì bị thương trong quá trình thúc quân xâm chiếm vương quốc Ayutthaya.[2]
Alaungpaya အလောင်းဘုရား | |||||
---|---|---|---|---|---|
Bức tượng của vua Alaungpaya ở phía trước của Bảo tàng Quốc gia Myanmar tại Yangon | |||||
Vua của Miến Điện | |||||
Tại vị | 29 tháng 2 năm 1752 – 11 tháng 5 năm 1760 (8 năm, 51 ngày)[1] | ||||
Đăng quang | 17 tháng 4 năm 1752 | ||||
Tiền nhiệm | Mahadhammaraza Dipadi | ||||
Kế vị | Naungdawgyi | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 24 tháng 9 năm 1714 Moksobo | ||||
Mất | 11 tháng 5 năm 1760 Kinywa, Mottama | (45 tuổi)||||
An táng | Shwebo | ||||
Phối ngẫu | Me Yun San 7 hoàng hậu và vương phi | ||||
Hậu duệ | 10 con trai, bảy con gái, gồm: Naungdawgyi Hsinbyushin Bodawpaya | ||||
| |||||
Hoàng tộc | Konbaung | ||||
Tôn giáo | Thượng tọa bộ |
Ông sinh ra tại một ngôi làng nhỏ 50 km về phía tây bắc của Ava. Với xuất thân tầm thường, ông đã giành được vị trí trưởng làng vào lúc mà đất nước bị người Môn Hanthawaddy Phục hưng xâm chiếm năm 1752. Trong khi cả nước khuất phục quân xâm lược, Alaungpaya với tinh thần độc lập, không chỉ giữ được ngôi làng của mình, mà còn đánh bại đội quân Môn đã được phái đến chinh phạt. Nhờ chiến thắng này, hàng ngàn người Miến đã theo ủng hộ ông và cùng ông đến giành lại Ava vào cuối năm 1753. Trong nhiều năm ông lãnh đạo các cuộc chiến và đã giành được thắng lợi.[3]
Năm 1754, những người Môn sau khi thất bại ở Kyaukmyaung đã hành hình vị vua Toungoo mà họ bắt được. Hậu duệ của vị vua này liền tuyên bố nối ngôi và đã nhận được sự ủng hộ của người Shan; nhưng Alaungpaya không chịu, và quyết định theo đuổi nghiệp đế vương của riêng mình. Vào năm 1755, Alaungpaya chinh phục được Dagon và đổi tên nơi này thành Yangon (nghĩa là kết thúc xung đột).[3] Năm 1757, ông trở thành vị vua hùng mạnh nhất ở phương đông khi ông chinh phạt được Pegu mặc dù người Môn ở đó được Pháp hỗ trợ.
Chưa đến một năm sau, người Môn lại nổi dậy; nhưng Alaungpaya đã lập tức trấn áp được. Nghi ngờ Ayutthaya đã ủng hộ người Môn, ông đã thẳng thừng tấn công vào tận kinh đô Ayutthaya. Tuy nhiên, trong cuộc chinh phạt này, ông đã bị trọng thương do khẩu đại bác mà ông đứng gần bị nổ khi nạp thuốc súng. Quân Miến Điện phải rút về nước. Alaungpaya chết trước khi tới được sông Salween. Lúc ấy, ông mới chưa đầy 46 tuổi và sự nghiệp của ông mới chỉ kéo dài có 8 năm.[3]
Kế vị Alaungpaya là con trai đầu của ông, Naungdawgyi (1760-1763).[1]
Tham khảo sửa
- ^ a b Christopher Buyers. “The Konbaung Dynasty Genealogy: King Alaungpaya”. royalark.net. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Alaungpaya”. Encyclopaedia Britannica.
- ^ a b c D.G.E. Hall (1960). Burma. Hutchinson University Library. tr. 76, 78, 85.[liên kết hỏng]
Thư mục sửa
- Charney, Michael W. (2006). Powerful Learning: Buddhist Literati and the Throne in Burma's Last Dynasty, 1752–1885. Ann Arbor: University of Michigan.
- Hall, D.G.E. (1960). Burma (ấn bản 3). Hutchinson University Library. ISBN 978-1-4067-3503-1.
- Harvey, G. E. (1925). History of Burma: From the Earliest Times to 10 March 1824. London: Frank Cass & Co. Ltd.
- Htin Aung, Maung (1967). A History of Burma. New York and London: Cambridge University Press.
- James, Helen (2004). “Burma–Siam Wars”. Trong Keat Gin Ooi (biên tập). Southeast Asia: a historical encyclopedia, from Angkor Wat to East Timor, Volume 2. ABC-CLIO. ISBN 1-57607-770-5.
- Koenig, William J. (1990). "The Burmese Polity, 1752–1819: Politics, Administration, and Social Organization in the early Kon-baung Period", Michigan Papers on South and Southeast Asia, Number 34. Ann Arbor: University of Michigan.
- Kyaw Thet (1962). History of Union of Burma (bằng tiếng Miến Điện). Yangon: Yangon University Press.
- Letwe Nawrahta; Maha Sithu of Twinthin (1961) [c. 1770]. Hla Thamein (biên tập). Alaungpaya Ayedawbon (bằng tiếng Miến Điện). Ministry of Culture, Union of Burma.
- Lieberman, Victor B. (1996), “Political Consolidation in Burma Under the Early Konbaung Dynasty, 1752-c. 1820.”, Journal of Asia History, 30 (2), tr. 152–168
- Lieberman, Victor B. (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800–1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-80496-7.
- Maung Maung Tin, U (1905). Konbaung Hset Maha Yazawin (bằng tiếng Miến Điện). 1–3 (ấn bản 2004). Yangon: Department of Universities History Research, University of Yangon.
- Myint-U, Thant (2006). The River of Lost Footsteps—Histories of Burma. Farrar, Straus and Giroux. ISBN 978-0-374-16342-6.
- Phayre, Lt. Gen. Sir Arthur P. (1883). History of Burma (ấn bản 1967). London: Susil Gupta.
- Royal Historical Commission of Burma (1832). Hmannan Yazawin (bằng tiếng Miến Điện). 3 (ấn bản 2003). Yangon: Ministry of Information, Myanmar.
- South, Ashley (2003). Mon Nationalism and Civil War in Burma: the Golden Sheldrake. Psychology Press. ISBN 0-7007-1609-2.
Liên kết ngoài sửa
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Alaungpaya. |
- The Royal Ark: Burma Christopher Buyers
- Capt. George Baker, Observations at Persaim and in the Journey to Ava and Back in 1755 Lưu trữ 2009-03-25 tại Wayback Machine SOAS
- Treaty between Alaung-hpaya and the British East India Company in 1757 Lưu trữ 2009-03-25 tại Wayback Machine SOAS
- Robert Lester, Proceedings of an Embassy to the King of Ava, Pegu, &C. in 1757 Lưu trữ 2007-01-03 tại Wayback Machine SOAS
- Capt. Walter Alves, Diary of the Proceedings of an Embassy to Burma in 1760 Lưu trữ 2007-01-03 tại Wayback Machine SOAS
- Michael Symes, An Account of an Embassy to the Kingdom of Ava, sent by the Governor-General of India, in the year 1795 Lưu trữ 2007-04-28 tại Wayback Machine, detailed descriptions of Alaungpaya's military campaigns in the south during the 1750s.