Amphiprion percula

loài cá

Amphiprion percula là một loài cá hề thuộc chi Amphiprion trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1802.

Amphiprion percula
Một cặp A. percula
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Amphiprion
Loài (species)A. percula
Danh pháp hai phần
Amphiprion percula
(Lacépède, 1802)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Lutjanus percula Lacepède, 1802
  • Amphiprion tunicatus Cuvier, 1830

Từ nguyên sửa

Từ định danh được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: perca ("cá rô") và ula (hậu tố mang ý nghĩa "bé nhỏ"), không rõ hàm ý mà tên gọi này đề cập đến[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

A. percula được ghi nhận ở vùng biển phía bắc và tây của đảo New Guinea (bao gồm New Britain), quần đảo SolomonVanuatu, trải dài dọc theo rạn san hô Great Barrier ở phía nam. Loài này sinh sống gần các rạn san hô ngoài khơi và trong đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 15 m[1]. A. percula không được biết đến tại Nouvelle-CalédonieFiji, mặc dù Fowler (1959) đã ghi nhận loài này tại những khu vực đó[3].

A. percula sống cộng sinh với ba loài hải quỳHeteractis magnifica, Heteractis crispaStichodactyla gigantea[3]. Các loài cá hề sống với cùng một loài hải quỳ thường có các kiểu phân bố vị trí khác nhau trong cùng một khu vực, như ở Papua New Guinea, A. perculaAmphiprion perideraion cùng sống cộng sinh với hải quỳ H. magnifica, nhưng A. percula chiếm giữ các bụi H. magnifica gần bờ, còn A. perideraion sống trong các bụi H. magnifica ngoài khơi xa[4].

Mô tả sửa

A. percula có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 11 cm[3]. A. perculamàu cam sáng với ba dải sọc trắng; dải giữa có phần lồi ra về phía đầu. Các dải trắng này thường được viền màu đen sẫm (kể cả các vây), trong khi viền đen quanh dải trắng của Amphiprion ocellaris không bao giờ đậm nét[5].

Những cá thể sống cộng sinh với hải quỳ S. gigantea có dải viền đen rất sẫm, và ở một số cá thể, dải đen này rất dày[5].

Số gai ở vây lưng: 9–10; Số tia vây ở vây lưng: 14–17; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 11–13[3]. A. ocellaris có 11 gai vây lưng (ít khi 10) so với 10 gai (ít khi 9) ở A. percula, và phần gai này của A. ocellaris cao hơn so với A. percula[5][6].

Sinh thái học sửa

Như những loài cá hề khác, A. percula cũng là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con đực nhỏ hơn[6][7]. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc cho đến khi chúng nở[3].

Thức ăn của A. perculađộng vật phù du, một số loài thủy sinh không xương sống nhỏ và tảo[6].

Cá bột A. percula sử dụng khứu giác để phát hiện những kẻ săn mồi và để định vị nơi cư trú trên rạn san hô, nhưng quá trình acid hóa đại dương tăng lên được cho là có thể ảnh hưởng đến khả năng phân biệt bằng khứu giác của chúng, cũng như nhiều loài cá rạn san hô khác[8][9]. Tuy nhiên, một nghiên cứu vào năm 2020 của Clark và các đồng nghiệp đã phản bác lại điều này. Họ cho rằng, quá trình acid hóa đại dương không làm suy yếu hành vi của cá rạn san hô[10]. Điều này làm dấy lên sự tranh cãi giữa các bên[11].

Thương mại sửa

A. percula được đánh bắt bởi những người thu mua cá cảnh và đã được nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt[1].

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c Jenkins, A.; Allen, G.; Myers, R.; Yeeting, B.; Carpenter, K.E. (2017). Amphiprion percula. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2017: e.T188372A1865631. doi:10.2305/IUCN.UK.2017-2.RLTS.T188372A1865631.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series OVALENTARIA (Incertae sedis): Family POMACENTRIDAE”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.[liên kết hỏng]
  3. ^ a b c d e Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Amphiprion percula trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  4. ^ Elliott, J. K.; Mariscal, R. N. (2001). “Coexistence of nine anemonefish species: differential host and habitat utilization, size and recruitment”. Marine Biology. 138 (1): 23–36. doi:10.1007/s002270000441. ISSN 1432-1793.
  5. ^ a b c Daphne Gail Fautin, Gerald R. Allen (1997). Anemone fishes and their host sea anemones: a guide for aquarists and divers. Perth, Tây Úc: Western Australian Museum. ISBN 978-0730983651. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.
  6. ^ a b c G. R. Allen (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3350. ISBN 978-9251045879.
  7. ^ Peter M. Buston (2004). “Territory inheritance in clownfish” (PDF). Proc. Biol. Sci. 271 (4): S252–4. doi:10.1098/rsbl.2003.0156. PMC 1810038. PMID 15252999.
  8. ^ Dixson, Danielle L.; Munday, Philip L.; Jones, Geoffrey P. (2010). “Ocean acidification disrupts the innate ability of fish to detect predator olfactory cues”. Ecology Letters. 13 (1): 68–75. doi:10.1111/j.1461-0248.2009.01400.x.
  9. ^ Munday, Philip L.; Dixson, Danielle L.; Donelson, Jennifer M.; Jones, Geoffrey P.; Pratchett, Morgan S.; Devitsina, Galina V.; Døving, Kjell B. (2009). “Ocean acidification impairs olfactory discrimination and homing ability of a marine fish”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 106 (6): 1848–1852. doi:10.1073/pnas.0809996106. ISSN 0027-8424. PMC 2644126. PMID 19188596.
  10. ^ Clark, Timothy D.; Raby, Graham D.; Roche, Dominique G.; Binning, Sandra A.; Speers-Roesch, Ben; Jutfelt, Fredrik; Sundin, Josefin (2020). “Ocean acidification does not impair the behaviour of coral reef fishes”. Nature. 577 (7790): 370–375. doi:10.1038/s41586-019-1903-y. ISSN 1476-4687.
  11. ^ Martin Enserink (2021). “Does ocean acidification alter fish behavior? Fraud allegations create a sea of doubt”. Science. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.