Cá mú mè, hay cá mú chấm cam,[2][3] danh phápEpinephelus coioides, là một loài cá biển thuộc chi Epinephelus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1822.

Cá mú mè
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Chi (genus)Epinephelus
Loài (species)E. coioides
Danh pháp hai phần
Epinephelus coioides
(Hamilton, 1822)
Danh pháp đồng nghĩa

Từ nguyên sửa

Hậu tố Latinhoides trong từ định danh có nghĩa là "tương đồng", hàm ý đề cập đến mối quan hệ gần giữa loài cá này và được cho là với Coius (= Anabas, một chi trong họ Cá rô đồng).[4]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

Cá mú mè có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Dọc theo vùng biển bao quanh bán đảo Ả RậpĐông Phi, loài này có phạm vi trải dài về phía đông đến PalauFiji, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Nam PhiÚc.[1][5]

Ở Việt Nam, cá mú mè thường xuyên được bắt gặp dọc theo vùng bờ biển Nam Trung Bộ, từ Đà Nẵng trở vào Bình Thuận.[6]

Thông qua kênh đào Suez, cá mú mè đã đến được Địa Trung Hải và được ghi nhận ở một số vùng biển. Một cá thể dài 42 cm được xác định là Epinephelus tauvina được bắt ở Israel,[7] nhưng gần 30 năm sau thì mẫu vật này được xem lại và xác định đó là cá mú mè E. coioides.[8] Cá mú mè còn được ghi nhận tại vịnh Trieste (cực bắc biển Adriatic)[9] và ngoài khơi Antalya (Thổ Nhĩ Kỳ).[10]

Cá mú mè sống trên các rạn viền bờ, nhưng cũng thường xuất hiện ở vùng nước lợ có nền đáy bùnđá vụn, độ sâu đến ít nhất là 100 m, còn cá con thường thấy ở khu vực cửa sông và giữa đầm lầy rừng ngập mặn.[11]

Mô tả sửa

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá mú mè là 120 cm. Cá có màu nâu nhạt, trắng dần về phía bụng. Có nhiều đốm nhỏ màu nâu cam hoặc đỏ nâu toàn thân và các vây. Thân có 5 dải sọc sẫm mờ, tách đôi về phía bụng.

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 18–20; Số vảy đường bên: 58–65.[8]

Cá mú mè thường bị nhầm lẫn với cá song điểm gai (E. malabaricus) và cá song mỡ (E. tauvina). Đốm của cá song điểm gai nhỏ hơn và có màu nâu đen, lại có thêm các vệt trắng khắp cơ thể; cá song mỡ thì có thêm các đốm đen ở 4 gốc tia gai vây lưng cuối cùng.[8]

Sinh học sửa

Thức ăn của cá mú mè bao gồm cá nhỏ hơn và các loài động vật giáp xác.[11]

Cá mú mè có thể sống đến 22 năm.[12] Là loài lưỡng tính tiền nữ (cá đực trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá cái),[13] cá cái thuần thục sinh dục khi được 4 năm tuổi. Quá trình chuyển đổi giới tính diễn ra trong khoảng 4 đến 8 năm đầu đời của chúng.[1]

Thời điểm sinh sản ở cá mú mè có sự khác nhau tùy theo khu vực. Ở vịnh Ba Tư thì chúng sinh sản từ tháng 3 đến tháng 6, còn ở Nouvelle-Calédonie thì vào cuối tháng 10 đến đầu tháng 12.[1]

Thương mại sửa

Cá mú mè là loài cá thực phẩm có giá trị thương mại ở phần lớn phạm vi phân bố của chúng. Hoạt động nuôi trồng thủy sản đối với loài này rất phổ biến ở Đông Nam Á, như ở Việt Nam.[14] Loài này được nuôi để tiêu thụ trong nước và để xuất khẩu, chủ yếu sử dụng cá giống được đánh bắt trong tự nhiên.[1]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e Amorim, P.; Choat, J. H.; Fennessy, S.; Law, C.; Ma, K.; Myers, R. F.; Nair, R.; Rhodes, K.; Sadovy, Y.; Samoilys, M.; Suharti, S.; To, A. (2018). Epinephelus coioides. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T44674A2999451. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T44674A2999451.en. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2022.
  2. ^ Võ Văn Quang, Trần Thị Hồng Hoa, Lê Thị Thu Thảo, Trần Công Thịnh (2015). “Đa dạng thành phần loài và kích thước khai thác của một số loài thuộc họ Cá mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Khánh Hòa” (PDF). Tạp chí Sinh học. 37 (1): 10–19.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  3. ^ Võ Văn Quang; Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Thị Tường Vi; Trần Thị Hồng Hoa; Nguyễn Phi Uy Vũ; Trần Công Thịnh (2016). “Đa dạng thành phần loài và hiện trạng khai thác họ cá Mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 16 (4): 405–417. doi:10.15625/1859-3097/16/4/7506.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  4. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei (part 5)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2022.
  5. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Serranus coioides. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập {{{3}}}. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  6. ^ Võ Văn Quang (2018). “Đa dạng loài họ cá Mú (Serranidae) vùng biển từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 18 (4A): 101–113.
  7. ^ Ben-Tuvia, A.; Lourie, A. (2013). “A Red Sea grouper Epinephelus tauvina caught on the Mediterranean coast of Israel”. Israel Journal of Zoology. 18: 245–247.
  8. ^ a b c Phillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Epinephelus” (PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 130–132. ISBN 92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  9. ^ Parenti, P.; Bressi, N. (2001). “First record of the orange-spotted grouper, Epinephelus coioides (Perciformes: Serranidae) in the northern Adriatic Sea”. Cybium. 25 (3): 281–284. doi:10.26028/cybium/2001-253-011.
  10. ^ Gökoğlu, M.; Özvarol, Y. (2015). Epinephelus coioides (Actinopterygii: Perciformes: Serranidae)–A new Lessepsian migrant in the Mediterranean coast of Turkey” (PDF). Acta Ichthyologica et Piscatoria. 45 (3): 307–309. doi:10.3750/AIP2015.45.3.09. ISSN 1734-1515.
  11. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Epinephelus coioides trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  12. ^ Mathews, C. P.; Samuel, M. (1991). “Growth, mortality and length-weight parameters for some Kuwaiti fish and shrimp” (PDF). Fishbyte. 9 (2): 30–33.
  13. ^ Grandcourt, E. M.; Al Abdessalaam, T. Z.; Francis, F.; Al Shamsi, A. T.; Hartmann, S. A. (2009). “Reproductive biology and implications for management of the orange-spotted grouper Epinephelus coioides in the southern Arabian Gulf” (PDF). Journal of Fish Biology. 74 (4): 820–841. doi:10.1111/j.1095-8649.2008.02163.x. PMID 20735602.
  14. ^ “Công nghệ sản xuất giống cá mú (Epinephelus coioides)”. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2022.