Hồ Xuân Hương

Thi sĩ thời cận đại của Việt Nam

Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là một thi sĩ người Việt Nam sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi.[1] Bà được nhà thơ hiện đại Xuân Diệu mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm.[2]

Hồ Xuân Hương
胡春香
Chân dung nữ sĩ Hồ Xuân Hương trên bìa sách Giai nhân di mặc của học giả Nguyễn Hữu Tiến, 1916.
Chân dung nữ sĩ Hồ Xuân Hương trên bìa sách Giai nhân di mặc của học giả Nguyễn Hữu Tiến, 1916.
Sinh(1772-07-10)10 tháng 7, 1772
Hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An, xứ Bắc Hà, Đại Việt
Mất3 tháng 2, 1822(1822-02-03) (49 tuổi)
Thăng Long, nội trấn Bắc Thành, Việt Nam
Nghề nghiệpHoa nương, thi sĩ
Quốc tịch An Nam
Dân tộcViệt
Giai đoạn sáng tácCổ điển
Thể loạiHán Nôm
Phối ngẫuNguyễn Bình Kình
Phạm Viết Ngạn

Năm 2021, bà cùng Nguyễn Đình Chiểu là hai nhà thơ của Việt Nam được UNESCO vinh danh là "danh nhân văn hóa thế giới"[3] cùng với kỷ niệm năm sinh/năm mất. Di tác của bà hoàn toàn là thơ và đa số đều được viết bằng chữ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là "thanh thanh tục tục".[4][5]

Lịch sử sửa

Không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân di mặc (佳人遺墨) của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916.[6] Vì vậy, đã có nhiều tranh cãi liệu Hồ Xuân Hương có thật.

Gia thế sửa

Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772, theo học giả John Balaban thì bà được sinh ra ở phường Khán Xuân[7] (nay thuộc địa phận Bách Thảo viên Hà Nội). Theo Giai nhân di mặc, Hồ Xuân Hương là ái nữ của Sinh đồ Hồ Phi Diễn[8][9][a] (胡丕演, 1704–1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại,[10] thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh[9] (胡士名, 1706–1783) cũng người Quỳnh Đôi, Hồ Sĩ Danh là anh cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Đống (胡士棟, 1739 – 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ họ Hà[7] (何氏, ? – 1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa Phi mai xuân sắc nhất kinh thành (丕梅春色一京成) của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai (胡丕梅) là nguyên danh, Xuân Hương (春香) là biểu tự và Cổ Nguyệt Đường (古月堂) là bút hiệu.[11]

Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường[11] ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài.[1] Sau khi mãn tang cha, mẹ, bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học.[9]

Lưu lạc và qua đời sửa

Hồ Xuân Hương được cưới gả từ rất sớm, nhưng cả hai lần đò đều không viên mãn. Ban sơ, bà làm lẽ của một hào phú có biệt hiệu Tổng Cóc. Tuy chỉ là cai lính nhưng Tổng Cóc vốn thuộc dòng dõi văn nhân, ông rất chuộng ca ngâm và mến luôn cái tài làm thơ của người vợ lẽ. Để chiều lòng bà, Tổng Cóc đã cất một thủy tạ rất lớn cho Hồ Xuân Hương ở, vừa tránh phiền lụy với vợ cả vừa thỏa thưởng thi phú. Chung sống với Tổng Cóc được một thời gian khá lâu thì Hồ Xuân Hương dứt áo ra đi với một cái thai. Có thuyết cho rằng, bà bỏ đi sau khi Tổng Cóc đã đột ngột từ trần; nhưng cũng có thuyết cho rằng bà không chịu được điều tiếng dị nghị của vợ con Tổng Cóc và người làng; lại có thuyết nói bản tính phóng đãng khiến Hồ Xuân Hương khó ngồi yên một chỗ, bà trốn đi cùng tình quân là Phạm Viết Ngạn.[12]

Vào ngày Hồ Xuân Hương trở dạ, Tổng Cóc đến đòi đón con về, nhưng người nhà họ Phạm nói lại là đứa bé đã mất khi vừa lọt lòng.[12] Trong hôn sự lần này, Hồ Xuân Hương làm lẽ của Tú tài Phạm Viết Ngạn, bấy giờ tại nhiệm tri phủ Vĩnh Tường. Nhưng duyên phận chỉ được 27 tháng thì ông phủ Vĩnh Tường tạ thế.[6]

Có nhiều thuyết về quãng đời sau đó của Hồ Xuân Hương, như việc bà cưới thêm vài người chồng nữa, việc bà hỏi mượn tiền thi hữu để mở hàng bán giấy bút mực, hoặc giai thoại về các mối tình trăng hoa và văn chương, nhưng mức độ khả tín chưa được xác định rõ ràng.[6]

Hồ Xuân Hương được cho là mất vào năm 1822.[9] Trong cuốn sách Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của ông Hồ Sỹ Bằng (nguyên Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế, thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Marx–Lenintư tưởng Hồ Chí Minh) đã dày công nghiên cứu và khẳng định các nhà nghiên cứu thiên về thuyết mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương nằm ở nghĩa địa ven hồ Tây. Mộ bà trước đây được xây vuông, đặt ở ven nghĩa địa Đồng Táo. Trải qua dòng thời gian biến thiên đất bồi đắp lở, sông nước hồ Tây ngày càng rộng lớn, mỗi lần kết cấu địa tầng thay đổi do điều kiện tự nhiên và nghĩa địa Đồng Táo bị chìm xuống lòng hồ cùng một số nghĩa trang khác.

Ngày 16 tháng 3 năm 2003, ông Vũ Hồ Luân (nhà nghiên cứu Hà Nội cũng là con cháu dòng họ Hồ) gặp ông Hồ Sỹ Bằng, kết hợp với nhà nghiên cứu sử dòng họ Hồ Việt Nam, Hồ Bá Hiền (Trưởng Ban Sử, Trưởng ban Liên lạc dòng họ Hồ tại Việt Nam) cùng với hậu duệ của tộc Hồ đang làm việc và sinh sống ở Hà Nội đã tập hợp ra một nhóm 8 người, trong đó có bốn người họ Hồ thuộc Trung chi II ở Quỳnh Đôi, là hậu duệ đời thứ sáu của Hồ Xuân Hương để đi tìm mộ bà ở hồ Tây nhưng không có kết quả.[13]

Tình duyên sửa

Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hòa. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt. Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội Kình.[14] Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số.[12]

Còn theo Phạm gia tộc phảTriệu tông phả, ông phủ Vĩnh Tường tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn (khi thăng chức Đồng tri phủ Phân phủ Vĩnh Tường thì cải thành Viết Lập), tên cúng cơm là Đại, tự Thành Phủ. Nguyên quán của ông ở hương Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Các tư liệu này cũng cho biết, Hồ Xuân Hương sinh cho ông một người con tên Phạm Viết Thiệu.[15]

Ngoài ra, có nhiều giai thoại truyền khẩu về lối sống phong lưu của nữ sĩ họ Hồ, như việc bà là một hoa nương thanh sắc vẹn toàn, và những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ,[16] Phạm Thái, Nguyễn Du,[17] Phạm Quý Thích, Nguyễn Hầu, Trần Ngọc Quán,[18] Trần Quang Tĩnh,[19] Phan Huy Huân,[20] Mai Sơn Phủ,[21] Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên,...

Tác phẩm sửa

 
Một ấn bản thơ Hồ Xuân Hương bằng Pháp văn của Viễn Đông Bác Cổ năm 1968.

Sơ lược sửa

Văn bản được nhận diện cổ nhất có chép thơ Hồ Xuân Hương là Quốc văn tùng ký[22] (國文話記) do Hải Châu Tử Nguyễn Văn San (阮文珊, 1808–1883) soạn năm Minh Mệnh thứ 14 (1834), nhưng chỉ vài bài. Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn Xuân Hương thi tập[23] (春香詩集), Phúc Văn Đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên được tất cả. Tuy nhiên, văn bản đáng quý nhất là Lưu hương ký[24] (琉香記) với bài tựa của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát kiến và công bố trên thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần Văn Giáp đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là của Hồ Xuân Hương. Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa Học Xã Hội (Paris), lại đặt nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân hương.[2]

Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán.[1][4][25] Ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời.[25] Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi.[6][26][27] Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ.[6][9]

Các tác phẩm sửa

Thơ chữ Hán sửa

  • Độ Hoa Phong
  • Hải ốc trù

Thơ chữ Nôm sửa

  • Bánh trôi nước
  • Bỡn bà lang khóc chồng
  • Cái kiếp tu hành
  • Cái nợ chồng con
  • Cái quạt
  • Chùa Quán Sứ
  • Chợ Trời Chùa Thầy
  • Cảnh chùa ban đêm
  • Cảnh thu
  • Dệt cửu
  • Dỗ người đàn bà khóc chồng
  • Đá Ông Chồng Bà Chồng
  • Đài Khán Xuân
  • Đánh cờ
  • Đánh đu
  • Đèo Ba Dội
  • Đền Sầm Đống
  • Đồng tiền hoẻn
  • Động Hương Tích
  • Giếng thơi
  • Hang Cắc Cớ
  • Hang Thánh Hoá
  • Hỏi trăng 1
  • Hỏi trăng 2
  • Khóc ông phủ Vĩnh Tường
  • Khóc Tổng Cóc
  • Không chồng mà chửa
  • Kẽm Trống
  • Làm lẽ
  • Lũ ngẩn ngơ
  • Mời trầu
  • Nhớ người cũ
  • Ốc nhồi
  • Phường lòi tói
  • Quán Khánh
  • Quan thị
  • Quả mít
  • Sư bị ong châm
  • Sư hổ mang
  • Tát nước
  • Thiếu nữ ngủ ngày
  • Tranh tố nữ
  • Trăng thu
  • Trống thủng
  • Tự tình I
  • Tự tình II
  • Tự tình III
  • Vịnh cái quạt I
  • Vịnh cái quạt II
  • Cúc
  • Mai

Chùm thơ chữ Nôm xướng họa cùng Chiêu Hổ sửa

  • Cặp xướng họa I
  • Cặp xướng họa II
  • Cặp xướng họa III

Tác phẩm nói đến bà sửa

  • Hồ Xuân Hương của Bích Khê
  • Hồ Xuân Hương của Xuân Hoàng

Ảnh hưởng sửa

Nghệ thuật sửa

Giáo dục sửa

Trong giáo dục tại Việt Nam, hai bài Bánh trôi nướcTự tình II được đưa vào sách giáo khoa lớp 7 tập 1, sách giáo khoa Cánh diều lớp 10 tập 1, và lớp 11 tập 1 thuộc bộ sách giáo khoa trước. Tại các trường đại học lớn tại Việt Nam, sinh viên chuyên ngành Văn học Việt Nam được học bộ môn Thơ Nôm Hồ Xuân Hương.

Vinh danh sửa

Nhiều địa điểm của Việt Nam được đặt tên theo thi sĩ Hồ Xuân Hương:

Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại Paris, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 đã thông qua danh sách "Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022–2023" để vinh danh và kỷ niệm năm sinh/năm mất của các nhân vật lịch sử được công nhận. Hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được thông qua cùng với 58 hồ sơ khác.

Xem thêm sửa

Ghi chú sửa

  1. ^ Lại có thuyết cho là Hồ Phi Huấn (胡丕訓).

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c Vietnam Past and Present: the North của tác giả Andrew Forbes và David Henley, xuất bản bởi Cognoscenti Books: ISBN 9781300568070.
  2. ^ a b "陳竹灕《胡春香漢喃詩及其女性意識研究》" (喃字詩女王), công trình nghiên cứu của Đại học Quốc gia Tôn Dật Tiên (Đài Loan).
  3. ^ “UNESCO tôn vinh Danh nhân văn hóa Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu”. bvhttdl.gov.vn. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  4. ^ a b Phim tài liệu Nhà thơ Hồ Xuân Hương chiếu trên kênh VTC10 (2012).
  5. ^ “Tục nhưng không trong thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương”. Quân đội nhân dân Online. Ngày 5 tháng 10 năm 2019.
  6. ^ a b c d e Smith 2008, tr. 498
  7. ^ a b Balaban 2000, tr. 6
  8. ^ Nguyễn Hữu Tiến (1916). Giai nhân di mặc. Nhà xuất bản Đông Kinh.
  9. ^ a b c d e Taylor 2013, tr. 406
  10. ^ Tạp chí Văn Học số 10, phát hành năm 1964
  11. ^ a b "Đi tìm Cổ Nguyệt đường và mối tình Hồ Xuân Hương - Nguyễn Du"
  12. ^ a b c Sự thật về bài thơ "Khóc Tổng Cóc"
  13. ^ “Hành trình tìm mộ "bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương”.
  14. ^ Truyện chưa biết về ông Tổng Cóc và mối tình với nữ sĩ Hồ Xuân Hương
  15. ^ Tri phủ Vĩnh Tường và nhân vật Chiêu Hổ là ai ?
  16. ^ Hình bóng Hồ Xuân Hương qua thơ Phạm Đình Hổ
  17. ^ Ngôn tinh ngữ túy (7): Ai cần chữ Hán - Nguyễn Du và một Hồ Xuân Hương 1 2 3 4
  18. ^ Hồ Xuân Hương và quan Hiệp trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán
  19. ^ Mối tình Hồ Xuân Hương và Hiệp trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh
  20. ^ Hồ Xuân Hương và Tốn Phong, người tình si
  21. ^ Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ qua "Lưu hương ký"
  22. ^ “Bài dẫn trong sách Quốc văn tùng ký của Nguyễn Văn San”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2016.
  23. ^ 春香詩集
  24. ^ Thơ nôm Hồ Xuân Hương, Kiều Thu Hoạch, Nhà xuất bản Văn Học, 1 tháng 10 năm 2007.
  25. ^ a b John Balaban (2009). "About Ho Xuan Huong", American Poetry Review, tháng Chín/Mười năm 2000, bộ 29, số 5.
  26. ^ Dutton, Werner & Whitmore 2012, tr. 305
  27. ^ Nguyen 2008, tr. 241
  28. ^ Đọc Lưu hương ký của Hồ Xuân Hương do giáo sư Nguyễn Ngọc Bích phiên âm và chú thích”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  29. ^ “Những bức họa nude của Bùi Xuân Phái”. 2 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2024.
  30. ^ Tranh sơn ta của Phùng Dzi Thuần
  31. ^ “Phố Hồ Xuân Hương”. dulichhaiphong.gov.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2019.

Thư mục sửa

Liên kết ngoài sửa