I-19 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ và hoạt động trong các quần đảo AleutGuadalcanal, với thành tích đã đánh chìm tàu sân bay USS Wasptàu khu trục USS O'Brien cũng như gây hư hại cho thiết giáp hạm USS North Carolina. I-19 bị tàu khu trục USS Radford thả mìn sâu đánh chìm gần đảo Makin vào ngày 25 tháng 11, 1943.

Tàu ngầm I-19 vào năm 1943
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 39
Xưởng đóng tàu Mitsubishi Heavy Industries, Kobe
Đặt lườn 15 tháng 3, 1938
Hạ thủy 16 tháng 9, 1939
Đổi tên I-19, 16 tháng 9, 1939
Nhập biên chế 28 tháng 4, 1941
Xóa đăng bạ 1 tháng 4, 1944
Số phận Bị tàu khu trục USS Radford đánh chìm gần đảo Makin, 25 tháng 11, 1943[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [2]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [2]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [2]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[2]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[2]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[2]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[2]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay
Thành tích phục vụ[4]
Một phần của:
Chỉ huy:
  • Shogo Narahara
  • 28 tháng 4, 1941 – 15 tháng 7, 1942
  • Takakazu Kinashi
  • 15 tháng 7, 1942 – 27 tháng 9, 1943
  • Shigeo Kobayashi
  • 27 tháng 9 – 25 tháng 11, 1943
Chiến thắng:
  • 2 tàu chiến bị đánh chìm (16.464 GRT)
  • 1 tàu chiến bị hư hại (37.484 GRT)
  • 3 tàu buôn bị đánh chìm (21.533 GRT)
  • 2 tàu buôn bị hư hại (12.876 GRT)

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[5] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[2] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[2] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[5] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[2] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[2] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[6] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[2] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[7]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[2] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[2][3] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[7] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[7]

Chế tạo

sửa

I-19 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 39 tại xưởng tàu của hãng Mitsubishi Heavy IndustriesKobe vào ngày 15 tháng 3, 1938.[4][1] Nó được đổi tên thành I-19 đồng thời được hạ thủy vào ngày 16 tháng 9, 1939,[4][1] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 28 tháng 4, 1941,[4][1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Narahara Shogo.[4]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-19 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[4] Vào ngày 28 tháng 4, nó cùng các tàu ngầm I-18I-20 được điều về Đội tàu ngầm 2 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[4][1] Vào ngày 10 tháng 11, bên trên soái hạm Katori, Phó đô đốc Shimizu Mitsumi, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, công bố Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[8] Cùng vào ngày này, I-19 đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 2 và gia nhập Lực lượng Viễn chinh Tiền phương của Đệ Lục hạm đội.[1]

Tấn công Trân Châu Cảng

sửa

Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho Kế hoạch Z, I-19 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 20 tháng 11, 1941,[1] đi đến vịnh Hitokappu, Etorofu (nay là đảo Iturup) thuộc quần đảo Kuril ba ngày sau đó, nơi Không hạm đội 1 được tập trung.[1] Tại đây I-19 cùng các tàu ngầm I-21I-23 được điều về thành phần hộ tống cho Lực lượng Cơ động (Kidō Butai), rồi cùng hạm đội khởi hành vào ngày 26 tháng 11 để hướng sang quần đảo Hawaii; họ đảm nhiệm vai trò trinh sát phía trước lực lượng.[1] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[1]

Vào lúc diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, I-19 tuần tra ở khu vực 110 mi (180 km) về phía Đông Bắc Oahu.[1] Sau đợt không kích, nó làm nhiệm vụ dẫn đường cho máy bay quay trở lại các tàu sân bay. Đến 10 giờ 40 phút, Đội tàu ngầm 2 được cho tách khỏi Lực lượng Cơ động để trực thuộc Đệ Lục hạm đội, và tuần tra tại khu vực 300 mi (480 km) về phía Đông Maui.[1] Vào ngày 9 tháng 12, tàu ngầm I-6 báo cáo phát hiện một tàu sân bay lớp Lexington cùng hai tàu tuần dương ngoài khơi Oahu đang đi về hướng Đông Bắc; vì vậy I-19 cùng các tàu ngầm khác được lệnh truy đuổi. Nó không thể đuổi kịp mục tiêu, và hai lần bị máy bay từ tàu sân bay đối phương tấn công, nhưng không bị hư hại.[1]

Tuần tra dọc bờ Tây Hoa Kỳ

sửa

Đến ngày 14 tháng 12, I-19 cùng với Hải đội Tàu ngầm 1 được lệnh tham gia cùng các tàu ngầm I-10I-26, để tuần tra dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ nhằm đánh phá tàu bè đối phương, đồng thời chuẩn bị cho một đợt bắn phá các thành phố tại lục địa Hoa Kỳ.[1] Vào ngày 9 tháng 12, nó phóng ngư lôi tấn công một tàu buôn không được hộ tống, có thể là chiếc tàu Na Uy Panama Express (4.200 tấn), nhưng trượt mục tiêu.[1] Sang ngày hôm sau, ngoài khơi Arguello Point, 55 mi (89 km) về phía Bắc Santa Barbara, California, nó phóng ba quả ngư lôi tấn công tàu chở dầu SS H.M. Storey, nhưng vẫn không trúng đích. Một máy bay tuần tra phát hiện I-19, nên nó phải lặn khẩn cấp để né tránh và từ bỏ việc tấn công.[1] Đến ngày 24 tháng 12, nó phóng hai quả ngư lôi tấn công chiếc Barbara Olson (2.146 tấn), và một quả trúng đích đã gây hư hại cho chiếc tàu chở hàng.[1] Tuy nhiên kế hoạch bắn phá các thành phố Hoa Kỳ dọc bờ Tây thoạt tiên bị trì hoãn, và sau cùng bị hủy bỏ vì các tàu ngầm đã cạn nhiên liệu và đối phương tăng cường tuần tra phòng thủ.[1]

Bị mất

sửa

Vào ngày 25 tháng 11, ở vị trí 50 mi (80 km) về phía Tây đảo Makin, tàu khu trục USS Radford phát hiện qua radar I-19 đang di chuyển trên mặt nước ở khoảng cách 8 mi (13 km) lúc 20 giờ 49 phút. Khi Radford tiếp cận I-19, mục tiêu biến mất khỏi màn hình radar lúc 21 giờ 30 phút, rồi dò được tín hiệu sonar của đối thủ mười phút sau đó. Radford đã thả bảy lượt mìn sâu tấn công, đánh chìm tàu ngầm đối phương tại tọa độ 03°10′B 171°55′Đ / 3,167°B 171,917°Đ / 3.167; 171.917.[1]

Vào ngày 2 tháng 2, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-19 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Gilbert với tổn thất toàn bộ 105 thành viên thủy thủ đoàn.[1] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 4, 1944.[1][4]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2014). “IJN Submarine I-19: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  4. ^ a b c d e f g h “I-19 ex No-39”. ijnsubsite.info. 1 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  5. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  6. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  7. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  8. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 8 năm 2016). “IJN Submarine I-9: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Horn, Steve (2005). The Second Attack on Pearl Harbor: Operation K And Other Japanese Attempts to Bomb America in World War II. Naval Institute Press. ISBN 1-59114-388-8.
  • Jentschura, Hansgeorg; Jung, Dieter; Mickel, Peter (1977). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 9780870218934.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa