I-26 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi sau đó tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Canada, AustraliaẤn Độ Dương, tham gia các Chiến dịch K, quần đảo Aleutquần đảo Mariana cũng như trong trận Hải chiến vịnh Leyte. I-26 nổi bật vì đã đánh chìm tàu buôn Hoa Kỳ đầu tiên trong chiến tranh, gây hư hại cho tàu sân bay USS Saratoga và đánh chìm tàu tuần dương hạng nhẹ USS Juneau.I-26 xếp thứ ba trong số các tàu ngầm Nhật Bản có thành tích cao nhất trong Thế Chiến II, khi đánh chìm 51.500 tấn tải trọng tàu đối phương. I-26 mất tích tại khu vực Leyte, Philippines, có thể bị các tàu hộ tống khu trục USS CoolbaughUSS Richard M. Rowell đánh chìm vào ngày 26 tháng 10, 1944.

Tàu ngầm I-26 trong vịnh Hiroshima, vào cuối tháng 10, 1941
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 139
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure
Đặt lườn 7 tháng 6, 1939
Hạ thủy 10 tháng 4, 1940
Đổi tên I-27, 10 tháng 4, 1940
Đổi tên I-26, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 6 tháng 11, 1941
Nhập biên chế 6 tháng 11, 1941
Xóa đăng bạ 10 tháng 3, 1945
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-26 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 139 tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure vào ngày 7 tháng 6, 1938.[6][7] Nó được đổi tên thành I-27 đồng thời được hạ thủy vào ngày 10 tháng 4, 1940,[6][7] rồi đổi tên thành I-26 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 6 tháng 11, 1941,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Yokota Minoru.[6]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-26 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[6] Vào ngày 31 tháng 10, 1941, nó được điều động vào Đội tàu ngầm 4, thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7] Vào ngày 10 tháng 11, bên trên soái hạm Katori, Phó đô đốc Shimizu Mitsumi, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, công bố Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[7] Cùng vào ngày này, I-26 cùng với tàu ngầm I-10 được điều về Đơn vị Trinh sát Đệ Lục hạm đội, có nhiệm vụ trinh sát khu vực quần đảo Aleut.[7] Nó đi đến Yokosuka vào ngày 12 tháng 11 để chuẩn bị, chất hàng tiếp liệu trong hầm chứa máy bay thay vì thủy phi cơ, và chỉ mang theo mười quả ngư lôi Kiểu năm thứ 6.

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

Rời Yokosuka vào ngày 19 tháng 11,[7] I-26 hướng sang quần đảo Aleut để trinh sát tàu bè, trước khi tiếp tục tuần tra tại vùng biển giữa San Francisco, Californiaquần đảo Hawaii.[6][7] Nó đã trinh sát các đảo Attu, KiskaAdak từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 11, và Dutch Harbor gần đảo Unalaska trong ngày 29 tháng 11.[6][7] Không tìm thấy tàu chiến Hoa Kỳ trong khu vực, nó hướng sang khu vực tuần tra được chỉ định ở khoảng tọa độ 28°00′B 141°30′T / 28°B 141,5°T / 28.000; -141.500.[7] Trên đường đi vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[7]

Đánh chìm SS Cynthia Olson

sửa

Tại vị trí 300 nmi (560 km) ngoài khơi San Francisco vảo ngày 6 tháng 12, I-26 bắt gặp tàu chở hàng SS Cynthia Olson (2.140 tấn), vốn được Lục quân Hoa Kỳ thuê đang trong hành trình chở hàng tiếp liệu quân đội từ Tacoma, Washington đến Honolulu, Hawaii.[7] Được chỉ thị không được nổ súng trước 03 giờ 30 phút (giờ Nhật Bản) ngày 8 tháng 12 (tức 08 giờ 00 ngày 7 tháng 12 giờ Hawaii),[8] I-26 chỉ theo dõi hướng đi và vận tốc của Cynthia Olson, rồi trồi lên mặt nước lúc chiều tối và đón đầu để có thể tấn công mục tiêu vào lúc bình minh ngày hôm sau. [7]

 
SS Cynthia Olson đang đắm vào ngày 7 tháng 12, 1941, ảnh chụp bởi thủy thủ trên chiếc I-26.

Đến bình minh ngày 7 tháng 12, I-26 tìm thấy Cynthia Olson đúng tại vị trí dự đoán,[7] xác định quốc tịch con tàu, và đến đúng giờ quy định đã trồi lên mặt nước rồi bắn một phát đạn pháo cảnh báo.[7] Thủy thủ đoàn của Cynthia Olson đánh tín hiệu cầu cứu rồi bỏ tàu trên hai chiếc xuồng cứu sinh. [7][9] I-26 nả 18 phát đạn pháo 140 mm (5,5 in) nhắm vào Cynthia Olson ở khoảng cách 1.000 yd (910 m), khiến mục tiêu bốc cháy,[7][10] và 20 phút sau đó I-26 lặn xuống và phóng một quả ngư lôi từ khoảng cách 450 yd (410 m), nhưng bị trượt.[7][10] I-26 nổi trở lên mặt nước và tiếp tục bắn thêm 29 phát đạn pháo trong hai giờ tiếp theo trước khi bỏ đi.[7][9] [10] Năm giờ sau khi bị tấn công, Cynthia Olson đắm ở vị trí khoảng 900 nmi (1.700 km) về phía Đông Bắc Hawaii, tại tọa độ 33°42′B 145°29′T / 33,7°B 145,483°T / 33.700; -145.483, trở thành tàu buôn Hoa Kỳ đầu tiên bị đánh chìm sau khi Hoa Kỳ bước vào cuộc xung đột, và cũng là tàu buôn Hoa Kỳ đầu tiên bị một tàu ngầm Nhật Bản đánh chìm.[6][7][11][12] Tàu biển chở hành khách Hoa Kỳ SS Lurline đã bắt được tín hiệu SOS của Cynthia Olson từ một khoảng cách xa.[10] Vào ngày 8 tháng 12, tàu ngầm I-19 đã bắt gặp những người sống sót của Cynthia Olson, bao gồm 33 thủy thủ và hai quân nhân, và đã cung cấp thực phẩm cho họ; nhưng sau đó không có bất kỳ tin tức nào khác về những người trên Cynthia Olson.[8][10]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g h i j “I-26 ex I-27 ex No-139”. ijnsubsite.info. 7 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-26: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b Webber (1975), tr. 13-14.
  9. ^ a b Prange (1991), tr. 89.
  10. ^ a b c d e Nelson (2016), tr. 208.
  11. ^ Harding (2010).
  12. ^ “Cynthia Olson”. navylog.navymemorial.org. United States Navy Memorial. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Edwards, Bernard (1997). Blood and Bushido: Japanese Atrocities at Sea 1941–1945. New York: Brick Tower Press. ISBN 1-883283-18-3.
  • Harding, Stephen (2010). Voyage To Oblivion, A Sunken Ship, A Vanished Crew And The Final Mystery Of Pearl Harbor. Amberley Publishing. ISBN 978-1-84868-923-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Morison, Samuel Eliot (2001). “Coral Sea, Midway, and Submarine Actions May 1942–August 1942”. The History of United States Naval Operations in World War II. 4. Boston: Little, Brown and Company. ISBN 978-0785813057.
  • Nelson, Craig (2016). Pearl Harbor: From Infamy to Greatness. Thorndike Press. tr. 208. ISBN 978-1410494733.
  • Prange, Gordon W. (1991). December 7, 1941: The Day the Japanese Attacked Pearl Harbor. Random House Publishing. tr. 40. ISBN 978-0517066584.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.
  • Webber, Ebbert (1975). Retaliation: Japanese Attacks and Allied Countermeasures on the Pacific Coast in World War II. Oregon State University Press. ISBN 0870710761.
  • Webber, Bert (1985). Silent Siege-II: Japanese Attacks Against North America In World War II. Ye Galleon Press. ISBN 9780877703181.

Liên kết ngoài

sửa