Louis XIV của Pháp (Louis Dieudonné; 5 tháng 9 năm 1638 – 1 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là Louis Đại đế (Louis the Great, Louis le Grand) hay Vua Mặt Trời (The Sun King, le Roi Soleil), là một quân chủ thuộc Nhà Bourbon, đã cai trị với danh hiệu Vua của PhápNavarra từ ngày 14 tháng 5 năm 1643 cho đến khi ông qua đời vào năm 1715. Ông được xem là một trong những nhà chinh phạt lớn trong lịch sử.[1] Triều đại kéo dài 72 năm 110 ngày đã khiến ông trở thành vị vua của một quốc gia có chủ quyền tại vị lâu nhất trong lịch sử.[2][a] Pháp dưới thời Louis XIV là biểu tượng của thời đại chuyên chế ở châu Âu.[4] Xung quanh nhà vua là hàng loạt nhân vật chính trị, quân sự và văn hóa quan trọng, chẳng hạn như Mazarin, Colbert, Louvois, Grand Condé, Turenne, Vauban, Boulle, Molière, Racine, Boileau, La Fontaine, Lully, Charpentier, Marais, Le Brun, Rigaud, Bossuet, Le Vau, Mansart, Charles Perrault, Claude PerraultLe Nôtre.

Louis XIV của Pháp
Vua Mặt trời
Louis XIV, họa phẩm của Hyacinthe Rigaud năm 1701
Quốc vương nước PhápNavarra
Tại vị14 tháng 5 năm 16431 tháng 9 năm 1715
72 năm, 110 ngày
Đăng quang7 tháng 6 năm 1654
Nhiếp chínhAna của Tây Ban Nha (1643-1651)
Tiền nhiệmLouis XIII Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệmLouis XV Vua hoặc hoàng đế
Thông tin chung
Sinh5 tháng 9 năm 1638
Château de Saint-Germain-en-Laye, Saint-Germain-en-Laye, Vương quốc Pháp
Mất1 tháng 9 năm 1715 (76 tuổi)
Lâu đài Versailles, Versailles, Vương quốc Pháp
An tángNhà thờ Saint-Denis, Saint-Denis, Pháp
Phối ngẫuMaría Teresa của Tây Ban Nha
Françoise d'Aubigné
Hậu duệLouis, Thái tử nước Pháp
Anne-Elisabeth của Pháp
Marie-Anne của Pháp
Marie-Thérèse của Pháp
Philippe-Charles của Pháp
Louis-François của Pháp
Tên đầy đủ
Louis Dieudonné de France
Vương tộcNhà Bourbon
Thân phụLouis XIII của Pháp Vua hoặc hoàng đế
Thân mẫuAna của Tây Ban Nha
Chữ kýChữ ký của Louis XIV của Pháp

Ông lên ngôi khi được 4 tuổi, và được mẹ là Ana của Tây Ban Nha nhiếp chính. Khi lên 9 tuổi, sau những cuộc nổi loạn, ông được dẫn đi ẩn náu khỏi kinh đô Paris. Ông cảm thấy bị sỉ nhục và nhất quyết muốn tự chủ, không để ai chi phối như Hồng y Richelieu đã chi phối cha ông và Hồng y Mazarin đã chi phối mẹ ông. Cũng từ đây trở về sau, ông có ác cảm với kinh đô Paris và không bao giờ muốn trở lại thành phố này. Năm 1661, khi được 23 tuổi, Louis XIV mới chính thức cai trị vương quốc sau cái chết của Hồng y Mazarin.[5] Là một người tuân thủ khái niệm về quyền lực thần thánh, Louis XIV chủ trương thiết lập một triều đình chuyên chế, xóa bỏ tàn dư phong kiến phân quyền đã ảnh hưởng sâu sắc toàn bộ nước Pháp, và một trong những việc này là tiến hành xây dựng Điện Versailles.

Năm 1666, ông chọn địa điểm của cung điện cho riêng ông, cách Paris 20 kílômét về hướng tây, rồi ra lệnh thi công. Ông huy động 36.000 công nhân, thêm 6.000 ngựa để chuyên chở vật liệu xây dựng. Thương vong của công nhân khá cao. Mỗi đêm, xe goòng đi nhặt xác chết do tai nạn nghề nghiệp. Hàng chục người chết mỗi tuần vì sốt rét. Năm 1682, Điện Versailles hoàn thành, trở thành một cung điện vĩ đại nhất thế giới. Điện Versailles không có thành lũy, vị vua đã xây cung điện trị vì không được che chắn, giữa đồng trống, để chứng tỏ một đấng quân vương đủ quyền lực không cần đến hào và tường thành để bảo vệ. Versailles trở thành biểu tượng của vị thế giàu có và quyền lực của đế chế hùng mạnh nhất châu Âu. Trên toàn lục địa, những quân vương khác – kể cả người đang có chiến tranh với Pháp – thể hiện tình thân hữu, lòng ganh tỵ và thách đố họ bằng cách xây cung điện theo mẫu Versailles. Mỗi quân vương đều muốn xây một Versailles cho riêng mình. Ngay cả những đại lộ dài và hoành tráng ở thủ đô Washington, D.C. của Mỹ, được quy hoạch 100 năm sau, cũng do một kiến trúc sư người Pháp thiết kế tổng thể theo mẫu Versailles.

Sau khi hoàn thành Điện Versailles, Louis XIV đã triệu tập các nhà quý tộc của Pháp dời đến trong triều đình để định cư, làm dịu đi những sự phân tranh của tầng lớp quý tộc, trong đó có nhiều người tham gia vào cuộc Biến loạn Fronde khi ông còn đang giai đoạn nhiếp chính. Bằng cách này, Louis XIV đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối của các Vua Pháp, được duy trì mãi tận đến khi xảy ra cuộc Cách mạng Pháp.

Quân đội Pháp bao gồm 15 vạn binh sĩ vào thời bình và 40 vạn quân tinh nhuệ trong thời chiến. Bản thân vua Louis XIV không có kinh nghiệm chiến trường, nhưng ông là nhà chiến lược và quản lý quân sự tài ba. Kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Chiến tranh, nhà vua bàn luận về vĩ mô chiến lược với các tướng lĩnh dày dạn trận mạc của ông, rồi chỉ đạo các hoạt động cung ứng quân nhu, tuyển quân, huấn luyện, tình báo quân đội... Theo thời gian, uy tín của Louis XIV và của nước Pháp dâng cao mỗi năm. Quân đội Pháp trở nên đáng sợ nhất châu Âu. Turenne - vị thống soái được Hoàng đế Napoléon Bonaparte ngợi ca là Vị tướng Pháp vĩ đại nhất - đã phò tá dưới triều vua Louis XIV.[6] Vào năm 1672, nhà vua sai tướng Turenne mang quân đi đánh Hà Lan nhưng không thành, phải rút lui.[7] Vẻ lộng lẫy của cung điện Versailles dấy lên lòng ngưỡng mộ và ganh tỵ của thế giới. Tiếng Pháp trở nên ngôn ngữ phổ cập trong ngoại giao, xã hội và văn học. Dường như bất kỳ việc gì – mọi việc – đều khả thi, nếu dưới văn bản chỉ thị có mang chữ ký cao to, nguệch ngoạc "Louis".

Những năm cuối của triều đại Louis XIV xảy ra nhiều thảm họa. Trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, liên quân Anh - Áo - Phổ do Công tước thứ nhất của Marlborough, Leopold I xứ Anhalt-Dessau và Vương công Eugène de Savoie-Carignan chỉ huy đập tan tác Quân đội vua Louis XIV trong trận đánh lớn tại Blenheim (1704)[8] - một đòn đánh cực kỳ đau vào quân Pháp.[9] Sau chiến bại thê thảm tại Blenheim, Quân đội vua Louis XIV lại bị Quận công Marlborough đại phá trong trận đánh tại Ramilies (1706).[10] Cùng năm đó, liên quân Áo - Phổ của Vương công Leopold và Vương công Eugène đè bẹp trong trận đánh tại Turin.[11] Mãi đến năm 1712, Quân đội Pháp do Thống chế Claude-Louis-Hector de Villars thống lĩnh mới đánh tan tác liên quân Áo - Hà Lan của Eugène trong trận đánh nhỏ tại Denain.[12][13] Song, người con chính thức độc nhất, người kế vị ngai vàng của nhà vua, qua đời năm 1711. Con trai của ông, Quận công của Bourgogne, hiện thân cho niềm hy vọng của nước Pháp trong tương lai, qua đời năm 1711 vì bệnh sởi ở tuổi 30. Đứa con trai trưởng của Quận công, cháu nội của Louis XIV, cũng chết vì bệnh sởi ít ngày sau.

Chỉ còn có một đứa trẻ thuộc dòng dõi kế vị ngai vàng trực tiếp, mới lên 2, là cháu kêu Louis XIV bằng ông cố. Đứa trẻ này cũng mắc bệnh sởi, nhưng thoát chết nhờ người bảo mẫu nhốt kín cậu bé và không cho phép các bác sĩ sờ đến cậu với hai bàn tay mang những bọc mọng nước. Hoàng tôn này được sống sót để trị vì nước Pháp trong 59 năm dưới hiệu là Louis XV. Trên giường bệnh, Louis XIV triệu người chắt lên 5 tuổi đến và nói: "Cháu ạ, một ngày cháu sẽ là vị Quân chủ vĩ đại. Đừng bắt chước tính hiếu chiến của ta. Hãy luôn hành xử dựa theo Chúa và khiến cho thần dân phải trọng vọng Người. Ta đau lòng mà thấy đã để cho thần dân trong tình trạng như thế."[14]

Vua Louis XIV qua đời năm 1715 sau khi trị vì 72 năm, thọ 76 tuổi. Có lẽ ông là vị Vua vĩ đại nhất của Pháp[14]. Những vị vua kế tục ông không tham vọng như ông, và huyền thoại về một lực lượng Quân đội Pháp bất khả chiến bại đã bị phá vỡ tan tành với việc họ bị Quân đội tinh nhuệ Phổ của vua Friedrich II Đại Đế đè bẹp trong trận đánh lớn tại Rossbach (1757), và sau này là đại bại trong Chiến tranh Bảy năm trước người Anh, và mất hết lãnh thổ Bắc Mỹ vào tay Anh.[15][16]

Thời thơ ấu

sửa
 
Louis XIV khi còn nhỏ
 
Louis XIII của Pháp, Vương hậu Ana và con trai họ Louis XIV

Louis XIV sinh vào ngày 5 tháng 9 năm 1638, tại Lâu đài Château de Saint-Germain-en-Laye, là con trai của Louis XIII của Pháp và vương hậu Ana của Áo. Cha mẹ của ông đã kết hôn được 23 năm trước khi sinh ra ông. Mẹ ông đã từng mang thai bốn lần, nhưng cả bốn lần đều bị hỏng. Do đó, mọi người coi ông như là một món quà mà Thiên Chúa ban tặng, và ngày sinh của ông là một phép lạ của Chúa Trời.[17] Cũng vì vậy mà ông được đặt tên Louis-Dieudonné (Louis Chúa ban)[18] và sớm mang danh hiệu Trữ quân nước Pháp: Dauphin.[19]

Năm 1643, khi đang hấp hối, Louis XIII đã chuẩn bị tất cả mọi thứ để giúp đỡ con trai mình trong những năm đầu trên ngai vàng. Ông lập một Hội đồng nhiếp chính, tạm quyền thay cho Louis trong thời gian còn thơ ấu. Trái ngược với truyền thống, ông không cho vợ Anne độc chiếm chức nhiếp chính vì ông không chắc chắn về tài năng chính trị của bà. Nhưng ông đã nhượng bộ về việc bổ nhiệm Anne trở thành người đứng đầu Hội đồng.[20]

Quan hệ giữa Louis và mẹ ông được xem là hiếm có vào thời điểm đó. Nhiều người đương thời cho rằng, Vương hậu Anne gần như đã dành toàn bộ thời gian với Louis. Cả hai đều có những sở thích về ẩm thựcnghệ thuật sân khấu. Cũng chính thái hậu đã khiến Louis vững tin thực hiện ý niệm tiến hành quân chủ chuyên chế của mình.[21]

Tuổi vị thành niên và nội chiến Fronde

sửa

Lên ngôi

sửa
 
Bức tranh Louis-Dieudonné, Trữ quân nước Pháp, được Claude Deruet vẽ vào năm 1643

Ngày sau khi Louis XIII qua đời vào ngày 14 tháng 5 năm 1643, Vương hậu Anne đã dùng Parlement de Paris (một cơ quan tư pháp bao gồm chủ yếu là quý tộc và giáo sĩ cao cấp) để tuyên bố hủy bỏ di chúc của chồng.[22] Hành động này đã bãi bỏ hội đồng nhiếp chính và đưa Anne trở thành Nhiếp chính duy nhất của Pháp. Sau khi lưu đày một số Bộ trưởng thân cận của chồng, Anne đã đề bạt Brienne làm Bộ trưởng Ngoại giao của mình.[23]

Anne giữ vững đường hướng chính sách tôn giáo trong tay cho đến năm 1661. Một trong những quyết định chính trị quan trọng nhất của bà là đề cử Hồng y Mazarin làm Thủ tướng, tiếp tục chính sách của người chồng quá cố và Hồng y Richelieu. Để bảo vệ Mazarin, Anne đã đày ải những ai mà bà cho rằng đang có âm mưu chống lại ông ta như Công tước BeaufortMarie de Rohan.[24] Vương hậu cũng là người đưa ra một số định hướng cho đường lối đối ngoại của Pháp. Điều này có thể cảm nhận được khi một đồng minh của Pháp là Hà Lan đã đàm phán với Tây Ban Nha về một nền hòa bình độc lập vào năm 1648.[25]

Năm 1648, Anne và Mazarin đàm phán thành công Hòa ước Westfalen, kết thúc Chiến tranh Ba Mươi Năm.[26] Các điều khoản của hòa ước đảm bảo sự độc lập của Hà Lan khỏi Tây Ban Nha, trao một số quyền tự trị cho các hoàng tử Đức khác nhau của Đế quốc La Mã Thần thánh, và cho Thụy Điển các ghế trong Hội đồng Hoàng gia cũng như các vùng lãnh thổ để kiểm soát các cửa sông Oder, ElbeWeser.[27] Tuy nhiên, Pháp được hưởng lợi nhiều nhất từ việc dàn xếp này. Áo dưới sự cai trị của Hoàng đế Ferdinand III đã nhượng lại tất cả các vùng đất và tuyên bố chủ quyền của nhà HabsburgAlsace cho Pháp và thừa nhận chủ quyền trên thực tế của mình đối với ba giáo phận Metz, VerdunToul.[28] Hơn nữa, với mong muốn tự giải phóng khỏi ách thống trị của Habsburg, các quốc gia nhỏ bé của Đức đã tìm kiếm sự bảo vệ của Pháp. Điều này đã dẫn đến sự hình thành của Liên đoàn sông Rhine năm 1658, làm sự suy giảm hơn nữa quyền lực của Đế quốc.

Bước đầu hành động

sửa
 
Châu Âu sau Hòa ước Westfalen năm 1648

Sau khi Chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc, một cuộc nội chiến Fronde đã nổ ra ở Pháp. Cuộc nội chiến này cũng đã kiểm nghiệm khả năng khai thác quyền lợi từ Hòa ước Westfalen của triều đình Pháp. Anne và Mazarin chủ yếu theo đuổi các chính sách của Đức Hồng Y Richelieu, làm tăng sức mạnh của Vương vị trong giới quý tộc và Parlements. Vương Thái hậu Anne can thiệp nhiều vào chính sách đối nội hơn là đối ngoại; bà là một vương hậu rất kiêu hãnh, người kiên định với các quyền thiêng liêng của Vua nước Pháp.[29]

Tất cả những điều này đã khiến bà trở thành một nhà quyết sách mạnh mẽ trong mọi vấn đề liên quan đến quyền lực của Nhà vua, theo cách cấp tiến hơn nhiều so với chính sách do Mazarin đề xuất. Hồng y phụ thuộc hoàn toàn vào sự hỗ trợ của Anne và phải sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình lên Vương hậu để kiềm chế một số hành động cấp tiến của bà. Anne sẵn sàng bỏ tù bất kỳ ai kể cả giới quý tộc nếu họ thách thức ý chí của bà; mục đích chính của bà là chuyển giao cho con trai mình một quyền hành tuyệt đối trong các vấn đề tài chính và tư pháp. Một trong những lãnh đạo của Quốc hội Paris đã chết sau khi bị Vương hậu bắt bỏ tù.[30]

Trong bối cảnh đó, Frondeurs – những người thừa kế chính trị của tầng lớp quý tộc phong kiến – đã cực kỳ bất mãn và tìm mọi cách để bảo vệ quyền lợi bao đời nay của họ khỏi một triều đình ngày càng tập quyền. Bên cạnh đó, một lực lượng mới nổi lên là Noblesse de Robe (quý tộc áo choàng) đã dần lấy được sự tin tưởng của những người đứng đầu vương quốc. Niềm tin của triều đình càng lớn, sự phẫn uất của quý tộc càng gia tăng.

 
Bức chân dung của Louis vào năm 1655, được miêu tả là thần Jupiter

Năm 1648, Anne và Mazarin cố gắng đánh thuế các thành viên của Parlement de Paris (Quốc hội Paris). Các thành viên Quốc hội đã từ chối tuân thủ và tỏ ra phản kháng bằng cách đốt tất cả các sắc lệnh trước kia của nhà vua. Trước sự khăng khăng của Vương hậu Anne, Mazarin đã tiến hành bắt giữ một số người tham gia Trận Lens để phô trương vũ lực sau chiến thắng của Louis, duc d’Enghien (sau này được gọi là le Grand Condé).[31] Một trong những vụ bắt giữ quan trọng nhất trong mắt Anne liên quan đến Pierre Broussel, một trong những nhà lãnh đạo quan trọng nhất ở Parlement de Paris.

Bắt đầu có sự phàn nàn trong dân chúng khi quyền lực của vương thất ngày càng mở rộng, mức thuế tăng cao và quyền lực của Parlement de Paris bị cắt giảm. Dưới áp lực dữ dội sau khi Paris nổ ra bạo loạn, Anne buộc phải trả tự do cho Broussel. Vào đêm 9-10 tháng 2 năm 1651, khi Louis chỉ mới 12 tuổi, một đám đông người Paris đã xông vào cung điện và yêu cầu được gặp mặt nhà vua. Sau khi được nhìn thấy Louis trong tình trạng giả vờ ngủ, đám đông đã được xoa dịu và chấp nhận rời đi.[32]

Ngày sau đó, kết luận của Hòa ước Westfalen đã cho phép quân đội của Condé quay trở lại để trợ giúp Louis và vương thất. Vào thời điểm đó, gia đình Condé có mối quan hệ cực kỳ tốt với Anne, và ông đã đồng ý hỗ trợ Vương hậu giành lại quyền lực của nhà vua.[33] Quân đội của Vương hậu với sự đứng đầu của Condé đã tấn công vào quân nổi dậy Paris. Sau một vài trận chiến, cả hai bên đã đạt được một thỏa hiệp chính trị, Hòa ước Rueil được ký kết.

Không may cho Anne là chiến thắng một phần này của bà phụ thuộc phần lớn vào Condé – một người có dã tâm kiểm soát Vương hậu và triệt tiêu sức ảnh hưởng của Mazarin. Chính chị gái của Condé là người đã thúc đẩy anh quay lưng lại với Vương hậu. Sau khi đạt được thỏa thuận với người bạn cũ Marie de Rohan, Anne đã ra lệnh bắt giữ Condé cùng với một số người thân của ông ta gồm Armand de Bourbon, Hoàng tử xứ Conti và chồng của Anne Genevieve de Bourbon, Nữ công tước xứ Longueville. Tình trạng này cũng không kéo dài, đặc biệt việc Mazarin không được lòng dân đã dẫn đến sự hình thành của một liên minh do Marie de Rohan và Nữ công tước Longueville đứng đầu. Liên minh quý tộc này đủ mạnh để giải phóng các vương tử, đày ải Mazarin và áp đặt điều kiện quản thúc tại gia đối với Vương hậu Anne.

Louis đã chứng kiến tất cả những sự việc này, cũng từ đây mà ông ngày càng mất lòng tin đối với Paris và tầng lớp quý tộc.[34] Theo một nghĩa nào đó, thời thơ ấu của Louis đã kết thúc với sự bùng nổ của Fronde. Nó không chỉ khiến cuộc sống trở nên bất an và khó chịu mà Louis còn phải tin tưởng vào sự tin tưởng của mẹ và Mazarin cũng như những vấn đề chính trị và quân sự mà ông không thể hiểu sâu sắc".[35] Những năm Fronde đã gieo vào Louis lòng căm thù Paris và hậu quả là quyết tâm rời khỏi cố đô càng sớm càng tốt, không bao giờ quay trở lại.[36]

Mở rộng lãnh thổ

sửa
 
Sự mở rộng lãnh thổ của Pháp dưới thời Louis XIV (1643–1715) được mô tả bằng màu cam

Chú thích

sửa
  1. ^ Some monarchs of states that were not internationally sovereign for most of their reign ruled for longer. For example, Sobhuza II at 82 years and Lord Bernard VII of Lippe in the Holy Roman Empire at 81 years.[3]

Tham khảo

sửa
  1. ^ Christopher Duffy, Siege Warfare: The fortress in the early modern world, 1494-1660, trang 247
  2. ^ “Louis XIV”. MSN Encarta. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2008.
  3. ^ Buchanan, Rose Troup (ngày 29 tháng 8 năm 2015). “Longest serving rulers ever”. The Independent. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  4. ^ Spielvogel 2016, tr. 419.
  5. ^ “Louis XIV”. Catholic Encyclopedia. 2007. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2008.
  6. ^ Jay Luvaas, Napoleon on the Art of War, trang 35
  7. ^ Jay Luvaas, Napoleon on the Art of War, trang 36
  8. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XVI
  9. ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 65
  10. ^ Christopher Duffy, The fortress in the age of Vauban and Frederick the Great, 1660-1789, trang 37
  11. ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 32
  12. ^ Christopher Duffy, The fortress in the age of Vauban and Frederick the Great, 1660-1789, trang 44
  13. ^ Jay Luvaas, Napoleon on the Art of War, trang 100
  14. ^ a b Theo cuốn Lịch sử thế giới
  15. ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 15
  16. ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 230
  17. ^ Barentine (2016), tr. 129.
  18. ^ Brémond, Henri (1908). La Provence mystique au XVIIe siècle (bằng tiếng Pháp). Paris, France: Plon-Nourrit. tr. 381–382.
  19. ^ Bluche (1990), tr. 11.
  20. ^ Reinhardt (2016), tr. 20.
  21. ^ Petitfils (2002), tr. 30–40.
  22. ^ Bély (2001), tr. 57.
  23. ^ Sonnino (1998), tr. 217–218.
  24. ^ Petitfils 2002
  25. ^ Petitfils (2002), tr. 29–36.
  26. ^ Beem (2018), tr. 83.
  27. ^ Barentine (2016), tr. 131.
  28. ^ Dvornik (1962), tr. 456.
  29. ^ Kleinman (1985).
  30. ^ Petitfils (2002), tr. 70–75.
  31. ^ Petitfils (2002), tr. 80–85.
  32. ^ Blanning 2008, tr. 306.
  33. ^ Petitfils 2002, tr. 84–87.
  34. ^ Petitfils 2002, tr. 88–90, 91–98.
  35. ^ Hatton 1972, tr. 22.
  36. ^ Hatton 1972, tr. 31.

Nguồn

sửa

Đọc thêm

sửa

Liên kết ngoài

sửa
Louis XIV của Pháp
Nhánh thứ của Vương triều Capet
Sinh: 5 tháng 9, 1638 Mất: 1 tháng 9, 1715
Tước hiệu
Tiền nhiệm
Louis XIII của Pháp
Danh sách quân chủ Pháp
14 tháng 5 năm 1643 – 1 tháng 9 năm 1715
Kế nhiệm
Louis XV của Pháp
Vương thất Pháp
Tiền nhiệm
Louis XIII của Pháp
Dauphin nước Pháp
5 tháng 9 năm 1638 – 14 tháng 5 năm 1643
Kế nhiệm
Louis, Thái tử Pháp