"No Tears Left to Cry" (thường được viết cách điệu là "no tears left to cry") là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Ariana Grande từ album phòng thu thứ tư sắp tới của cô, Sweetener. Được sáng tác bởi Grande, Savan Kotecha cùng với các nhà sản xuất Max MartinIlya, bài hát được phát hành bởi Republic Records, là đĩa đơn đầu của album vào ngày 20 tháng 4 năm 2018, cùng với video âm nhạc. Bài hát đã đứng đầu các bảng xếp hạng tại Úc, Cộng hòa Séc, Hungary, Ireland, Malaysia, Na Uy, Singapore và Slovakia và đã lọt vào top 5 ở Áo, Canada, Đức, Hà Lan, New Zealand, Thụy Sỹ, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ và top 10 tại Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Tây Ban Nha và Thụy Điển.

"No Tears Left to Cry"
The cover shows Grande's profile with a rainbow light cast across her face.
Đĩa đơn của Ariana Grande
từ album Sweetener
Phát hành20 tháng 4 năm 2018 (2018-04-20)
Định dạng
Thể loại
Thời lượng3:25
Hãng đĩaRepublic
Sáng tác
Sản xuất
  • Max Martin
  • Ilya
Thứ tự đĩa đơn của Ariana Grande
"Somewhere Over the Rainbow"
(2017)
"No Tears Left to Cry"
(2018)
"Dance To This"
(2018)
Video âm nhạc
"No Tears Left to Cry" trên YouTube

Bối cảnh và phát hành sửa

Sau vụ đánh bom tại Manchester Arena trong một buổi lưu diễn Dangerous Woman Tour của Grande vào tháng 5 năm 2017, cô ca sĩ đã không còn hứng thú thu âm các ca khúc mới nữa, mà muốn dành thời gian với người thân để nguôi đi cơn chấn động của chuyến lưu diễn.[1] Cô quay trở lại phòng thu vào cuối năm 2017, sáng tác "No Tears Left to Cry" cùng với Savan Kotecha và các nhà sản xuất Max MartinIlya.[2][3] Nói về bài hát, Grande nói rằng cô hi vọng nó sẽ đem lại ánh sáng và sự thoải mái, "nhưng đồng thời cũng khiến bạn muốn nhảy múa và sống tốt cuộc đời mình!"[4]

Variety ban đầu đưa tin vào ngày 9 tháng 4 năm 2018 rằng bài hát sẽ được phát hành ngày 27 tháng 4 năm 2018.[5] Grande bắt đầu hé lộ về bài hát trên mạng xã hội vào ngày 15 tháng 4 năm 2018, trong đó cô dùng các ký hiệu emoji hình giọt nước mắt và viết lộn ngược tên bài hát thành "ʎɹɔ oʇ ʇɟǝl sɹɐǝʇ ou".[6] Tựa đề bài hát đã xuất hiện trên các bảng quảng cáo khắp nước Mỹ và được xuất hiện trên những chiếc áo sweatshirt màu xám mà Grande, người anh trai cùng mẹ khác cha Frankie và bạn trai Mac Miller đã mặc trên mạng xã hội.[7][8] Một buổi tiệc ra mắt ở London cũng đã được tổ chức.[9] Bài hát được phát hành toàn cầu vào lúc nửa đêm Giờ miền Đông vào ngày 20 tháng 4 năm 2018, là đĩa đơn đầu từ album phòng thu thứ tư sắp tới đây của Grande, Sweetener.[10][11][12] Những chiếc áo sweatshirt xám được bán trên trang web của Grande ngày sau đó, đi kèm với một bản sao bài hát.[13] Ở Mỹ, "No Tears Left to Cry" đã được gửi tới các đài phát thanh hot adult contemporary vào ngày 23 tháng 4 năm 2018,[14] và tới các đài rhythmic contemporarycontemporary hit radio ngày sau đó.[15][16]

Sáng tác sửa

"No Tears Left to Cry" là một bài hát dance-popdisco với phần beat mang phong cách UK garage.[17][18][19] Bài hát được viết theo cung La thứ với nhịp 4
4
nhịp độ khoảng 122 bpm. Đoạn điệp khúc được viết dựa trên chùm hợp âm Am–G–F–Am–G–F–C–Dm–Am–C, trong khi các đoạn verse theo chùm A(add2)–F(add2)–G(add2). Âm vực của Grande trải dài từ G3 tới G5.[20]

Thành công thương mại sửa

Trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại Hoa Kỳ, "No Tears Left to Cry" khởi đầu tại vị trí thứ ba với 36,9 triệu lượt stream, 100.000 bản đã được bán và 27 triệu khán giả airplay trong tuần đầu tiên. Bài hát trở thành đĩa đơn thứ chín của Grande lọt vào top 10 và là bài hát khởi đầu cao nhất trên bảng xếp hạng (cùng với đĩa đơn năm 2014 "Problem"). Bài hát cũng đánh dấu màn mở đầu lọt vào top 10 thứ sáu của cô, khiến Grande cùng với Lady GagaRihanna ở vị trí thứ sáu trong danh sách các nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn ra mắt vào top 10 nhất.[21] Ở Canada, bài hát trở thành đĩa đơn được xếp hạng cao nhất của Grande, đứng ở vị trí thứ hai trong bảng xếp hạng Canadian Hot 100, đứng sau "Nice for What" của Drake.[22]

"No Tears Left to Cry" ra mắt tại vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng ARIA Singles Chart, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên và đĩa đơn top 10 thứ sáu của Grande tại Úc.[23][24] Tại New Zealand, bài hát lọt vào bảng xếp hạng RMNZ Singles Chart ở vị trí thứ tư.[25] Bài hát khởi đầu tại vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng UK Singles Chart với doanh thu trong tuần đầu 74.290 đơn vị, trở thành đĩa đơn top 10 thứ sáu của Grande tại Anh Quốc.[26][27] Bài hát đã phải nhướng vị trí đầu cho "One Kiss" của Calvin HarrisDua Lipa trong hai tuần liên tiếp.[28] Trên khắp châu Âu, "No Tears Left to Cry" đứng đầu các bảng xếp hạng tại Hungary, Ireland và Na Uy,[29][30][31] lọt vào top 5 tại Áo, Đức, Phần Lan, Hà Lan (Single Top 100) và Thụy Sỹ, và top 10 ở Bỉ (Flanders), Đan Mạch, Ý, Tây Ban Nha và Thụy Điển.[32][33][34][35]

Biểu diễn trực tiếp sửa

Grande biểu diễn "No Tears Left to Cry" lần đầu trong màn biểu diễn của Kygo tại Lễ hội Âm nhạc và Nghệ thuật Thung lũng Coachella vào ngày 20 tháng 4 năm 2018.[36] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2018, cô biểu diễn bài hát lần đầu tiên trên truyền hình trong chương trình The Tonight Show Starring Jimmy Fallon.[37]

Ghi danh sửa

Phần ghi danh lấy từ Tidal.[3]

  • Ariana Grande – giọng hát
  • Max Martin – sản xuất, keyboard, bass, trống, bộ gõ, lập trình
  • Ilya – sản xuất, keyboard, trống, bộ gõ, lập trình
  • John Hanes – kỹ sư phối khí
  • Sam Holland – kỹ thuật
  • Cory Bice – trợ lý kỹ sư thu âm
  • Jeremy Lertola – trợ lý kỹ sư thu âm
  • Serban Ghenea – phối khí

Xếp hạng sửa

Bảng xếp hạng (2018) Vị trí
cao nhất
Úc (ARIA)[38] 1
Áo (Ö3 Austria Top 40)[39] 2
Bỉ (Ultratop 50 Flanders)[40] 9
Bỉ (Ultratop 50 Wallonia)[41] 21
Canada (Canadian Hot 100)[42] 2
Canada CHR/Top 40 (Billboard)[43] 18
Canada Hot AC (Billboard)[44] 31
Colombia (National-Report)[45] 87
Cộng hòa Séc (Singles Digitál Top 100)[46] 1
Đan Mạch (Tracklisten)[32] 6
Ecuador Anglo (Monitor Latino)[47] 10
Euro Digital Songs (Billboard)[48] 2
Phần Lan (Suomen virallinen lista)[49] 2
Pháp (SNEP)[50] 13
songid field is MANDATORY FOR GERMAN CHARTS 2
Hy Lạp Digital Singles (IFPI)[51] 1
Hungary (Single Top 40)[29] 1
Hungary (Stream Top 40)[52] 1
Ireland (IRMA)[30] 1
Ý (FIMI)[33] 6
Nhật Bản (Japan Hot 100)[53] 15
Latvia (Latvijas Top 40)[54] 14
Malaysia (RIM)[55] 1
Hà Lan (Dutch Top 40)[56] 7
Hà Lan (Single Top 100)[57] 4
New Zealand (Recorded Music NZ)[25] 4
Na Uy (VG-lista)[31] 1
Ba Lan (Polish Airplay Top 100)[58] 54
Scotland (Official Charts Company)[59] 2
Singapore (RIAS)[60] 1
Slovakia (Singles Digitál Top 100)[61] 1
Hàn Quốc International (Gaon)[62] 19
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[34] 9
Thụy Điển (Sverigetopplistan)[35] 10
Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[63] 2
Anh Quốc (OCC)[64] 2
Hoa Kỳ Billboard Hot 100[65] 3
Hoa Kỳ Adult Top 40 (Billboard)[66] 22
Hoa Kỳ Dance Club Songs (Billboard)[67] 42
Hoa Kỳ Mainstream Top 40 (Billboard)[68] 16
Hoa Kỳ Rhythmic (Billboard)[69] 27

Lịch sử phát hành sửa

Khu vực Ngày Định dạng Nhãn đĩa Tham khảo
Nhiều nơi 20 tháng 4 năm 2018 Republic [3]
Hoa Kỳ 23 tháng 4 năm 2018 Hot adult contemporary radio [14]
24 tháng 4 năm 2018 Contemporary hit radio [16]
Rhythmic contemporary radio [15]
Ý 27 tháng 4 năm 2018 Contemporary hit radio Universal [70]

Tham khảo sửa

  1. ^ Briones, Issis (ngày 27 tháng 9 năm 2017). “48 Hours in Hong Kong With Ariana Grande”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  2. ^ Savage, Mark (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “No Tears Left To Cry: Ariana Grande's uplifting new single alludes to Manchester”. BBC Music. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  3. ^ a b c “No Tears Left To Cry / Ariana Grande TIDAL”. Tidal. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
  4. ^ D'Zurilla, Christie (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “Listen to Ariana Grande's new tune 'No Tears Left to Cry,' her first since Manchester bombing”. Hartford Courant. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  5. ^ Aswad, Jem (ngày 9 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande to Drop First Single From New Album on April 27”. Variety. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  6. ^ Prance, Sam (ngày 16 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande Appears to Confirm New Single Title”. MTV UK. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  7. ^ “Ariana Grande teases new music: 'no tears left to cry'. Newsbeat. ngày 18 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  8. ^ Prance, Sam (ngày 17 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande Is Reportedly Dropping a Single This Week”. MTV UK. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  9. ^ Elder, Sajae (ngày 19 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande's New Single Reportedly Has 'Powerful' Effect on Listening Party Attendees”. Complex. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.[liên kết hỏng]
  10. ^ Kitchener, Shaun (ngày 19 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande 'No Tears Left To Cry': Listen to snippet of new single”. Daily Express. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  11. ^ Reed, Ryan (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “Hear Ariana Grande's Uplifting New Song 'No Tears Left to Cry'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  12. ^ Blais-Billie, Braudie; Minsker, Evan (ngày 1 tháng 5 năm 2018). “Watch Ariana Grande Cover Kendrick in the Style of Evanescence on 'Fallon'. Pitchfork. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  13. ^ “No Tears Left to Cry Grey Crewneck + Digital Single”. ArianaGrande.com. ngày 21 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  14. ^ a b “Hot/Modern/AC Future Releases”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  15. ^ a b “Top 40/R Future Releases”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  16. ^ a b “Top 40/M Future Releases”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  17. ^ Caramanica, Jon (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “The Playlist: Prince's Own 'Nothing Compares 2 U,' and 12 More New Songs”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2018.
  18. ^ He, Richard S. (ngày 27 tháng 4 năm 2018). “Every Ariana Grande Song, Ranked”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  19. ^ Garvey, Meaghan (ngày 20 tháng 4 năm 2018). 'No Tears Left to Cry' by Ariana Grande Review”. Pitchfork. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2018.
  20. ^ “Ariana Grande 'No Tears Left to Cry' Sheet Music in A Minor”. Musicnotes.com. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  21. ^ Zellner, Xander (ngày 30 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande Scores 9th Billboard Hot 100 Top 10 With 'No Tears Left to Cry'. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  22. ^ “Canadian Music: Top 100 Songs Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  23. ^ “Ariana Grande snares first #1 single”. Australian Recording Industry Association. ngày 28 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  24. ^ Ryan, Gavin (ngày 28 tháng 4 năm 2018). “Australian Charts: Ariana Grande Manchester Tribute Debuts At No 1”. Noise11. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  25. ^ a b “NZ Top 40 Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 30 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  26. ^ Jones, Alan (ngày 27 tháng 4 năm 2018). “Charts analysis: Calvin Harris and Dua Lipa score biggest No.1 so far this year”. Music Week. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  27. ^ “Calvin Harris and Dua Lipa hold off Ariana Grande to stay at number one”. Irish Examiner. ngày 27 tháng 4 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2018.
  28. ^ Mapstone, Lucy (ngày 4 tháng 5 năm 2018). “Rapper Post Malone lands first UK number one album”. Irish Independent. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2018.
  29. ^ a b “Single (track) Top 40 lista”. (Single Top 40). ngày 27 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.
  30. ^ a b “IRMA – Irish Charts”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  31. ^ a b “VG-lista – Topp 20 Single uke 16, 2018”. VG-lista. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  32. ^ a b “Track Top-40 Uge 17, 2018”. Hitlisten. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  33. ^ a b “Top Singoli – Classifica settimanale WK 17” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2018.
  34. ^ a b “Top 100 Canciones – Semana 17: del 20.4.2018 al 26.4.2018” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  35. ^ a b “Sverigetopplistan – Sveriges Officiella Topplista”. Sverigetopplistan. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  36. ^ Havens, Lyndsey (ngày 21 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande Live Debuts 'No Tears Left To Cry' in Surprise Coachella Appearance”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2018.
  37. ^ Young, Alex (ngày 2 tháng 5 năm 2018). “Ariana Grande announces new album, Sweetener, sings Drake and Kendrick on Fallon”. Consequence of Sound. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  38. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles”. Australian Recording Industry Association. ngày 30 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  39. ^ "Austriancharts.at – Ariana Grande – No Tears Left to Cry" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  40. ^ "Ultratop.be – Ariana Grande – No Tears Left to Cry" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  41. ^ "Ultratop.be – Ariana Grande – No Tears Left to Cry" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  42. ^ "Ariana Grande Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  43. ^ "Ariana Grande Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  44. ^ "Ariana Grande Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  45. ^ “Top 100 Colombia – Semana 18 del 2018 – Del 27/04/2018 al 03/05/2018”. National-Report. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.
  46. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Digital Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 17. týden 2018. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2018.
  47. ^ “Top 20 Anglo”. (Monitor Latino). ngày 29 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.
  48. ^ “Euro Digital Song Sales”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  49. ^ "Ariana Grande: No Tears Left to Cry" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2018.
  50. ^ “Top Singles (téléchargement + streaming)”. (SNEP). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2018.
  51. ^ “Greece Official IFPI Charts Digital Singles Chart: ngày 30 tháng 4 năm 2018”. IFPI Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  52. ^ “Stream Top 40 slágerlista”. (Stream Top 40). ngày 27 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.
  53. ^ "Ariana Grande Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  54. ^ “Latvijas Top 40”. Latvijas Radio. ngày 2 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  55. ^ “RIM CHARTS Top 20 Most Streamed International” (PDF). (RIM). ngày 27 tháng 4 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.
  56. ^ "Nederlandse Top 40 – week 18, 2018" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40 Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2018.
  57. ^ "Dutchcharts.nl – Ariana Grande – No Tears Left to Cry" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2018.
  58. ^ "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay Top 100. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2018.
  59. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  60. ^ “RIAS Top 30 International Streaming Chart”. (RIAS). ngày 27 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  61. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Singles Digital Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 17. týden 2018. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2018.
  62. ^ “Gaon Digital Chart – Issue date: 2018.04.22-2018.04.28”. Gaon Chart. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  63. ^ "Swisscharts.com – Ariana Grande – No Tears Left to Cry" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2018.
  64. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  65. ^ "Ariana Grande Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  66. ^ "Ariana Grande Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  67. ^ "Ariana Grande Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2018.
  68. ^ "Ariana Grande Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  69. ^ "Ariana Grande Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  70. ^ “ARIANA GRANDE "No Tears Left To Cry" | (Radio Date: 27/04/2018)”. radiodate.it. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2018.