Phan Huy Chú
Phan Huy Chú (chữ Hán: 潘輝注; 1782 – 28 tháng 5 năm 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, là quan triều nhà Nguyễn và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn,[1] nhà bác học Việt Nam.[2]
Phan Huy Chú 潘輝注 | |
---|---|
Tư vụ bộ Công | |
Tên chữ | Lâm Khanh |
Tên hiệu | Mai Phong |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1782 |
Nơi sinh | thôn Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (nay là thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội) |
Mất | |
Ngày mất | 28 tháng 5 năm 1840 (58 tuổi) |
Nơi mất | làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội) |
An nghỉ | thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Phan Huy Ích |
Thân mẫu | Ngô Thị Thực |
Phu nhân | Nguyễn Thị Vũ |
Học vấn | Tú tài |
Chức quan | Tư vụ bộ Công |
Nghề nghiệp | quan lại |
Tôn giáo | Nho giáo |
Quốc tịch | Việt Nam |
Tác phẩm | Lịch triều hiến chương loại chí |
Nguồn gốc và giáo dục
sửaPhan Huy Chú là con của Phan Huy Ích, một nhà nho có tiếng đậu tiến sĩ đời nhà Hậu Lê và từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Mẹ ông là Ngô Thị Thực, con gái của Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà mất khi ông 10 tuổi. Phan Huy Chú có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy của nhà Nguyễn mới đổi là Chú, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong.[3]
Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây và nay là thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội).[4]
Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, là con trai thứ ba của Lễ bộ Thượng thư, tiến sĩ Phan Huy Ích. Ông nội là tiến sĩ Phan Huy Cận, ông ngoại là Ngô Thì Sĩ, cha là Phan Huy Ích, bố vợ là Nguyễn Thế Lịch, bác là Ngô Thì Nhậm, chú là Phan Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực…
Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An, nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh, sau khi từ giã chốn quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành "ông tổ đầu tiên của chi phái Phan Huy" ở đây.[5]
Phan Huy Chú được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi;[6] nổi tiếng hay chữ ở miền phủ Quốc tỉnh Sơn, nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão 1807 và Kỷ Mão 1819) ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là "Kép Thầy", vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ đó, ông thôi việc thi cử, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác.[2]
Tác động của dòng dõi tài danh, hiếu học và những quan hệ trí tuệ đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tính cách của Phan Huy Chú. Phan Huy Chú là một nhà bác học, danh nhân văn hóa Việt Nam, với tài danh lỗi lạc về bách khoa thư.
Sự nghiệp
sửaNăm Canh Thìn (1820), Minh Mạng năm thứ nhất, Phan Huy Chú được gọi vào kinh đô Huế và cho giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế.
Gọi bọn Tiến sĩ triều Lê là Nguyễn Đăng Sở và Đỗ Lệnh Thiện, Sinh đồ ở Bắc Thành là Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú, sĩ nhân là Ngô Du, Đoàn Nguyên, Đỗ Huy Ngạc, Nguyễn Minh Khiêm, do bộ dẫn vào yết kiến. Lệnh Thiện và Đình Hổ vì ốm từ không đến. Đăng Sở đến Kinh, được bổ Hàn lâm viện Tu soạn. Bọn Huy Chú được bổ các chức Biên tu, Kiểm thảo, theo bậc khác nhau.[7]
Năm Tân Tỵ (1821), ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành),[2] và được khen thưởng.
Hàn lâm viện Biên tu Phan Huy Chú dâng bộ sách do mình soạn là Lịch triều hiến chương loại chí (49 quyển). Thưởng cho một cặp áo sa, 30 lạng bạc.
...
Sai Văn thư phòng tiến lãm bộ Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú dâng. Vua quay hỏi Phan Huy Thực rằng : “Sách này Chú tự soạn thuật hay là sưu tập sách sẵn của các nhà ?”. Tâu rằng : “Cũng có tìm xa lấy rộng”. Vua nói rằng : “Sách này soạn thuật dẫu khéo, nhưng lập ngôn thường thường bênh vực họ Trịnh thì kiến thức cũng quê”.[7]
Năm Quý Mùi (1823), ông dâng sớ điều trần nhưng bị bác.
Lang trung Lại bộ là Phan Huy Chú dâng sớ điều trần bốn việc, nói nhiều điều viển vông bậy bạ, không thiết việc đời. Vua xem cười rằng : “Chú cầu tiến thân mong hợp ý, cũng như bọn Mao Toại tự tiến vậy”. Trả sớ lại.[7]
Năm Ất Dậu (1825), ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện Hàn lâm. Năm Tân Mão (1831), lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức vì tội "lộng quyền", riêng ông bị cách chức.[8]
Sứ bộ sang nhà Thanh là bọn Hoàng Văn Đản, Trương Hảo Hợp và Phan Huy Chú, khi về bắt nhiều phu trạm đài đệ các đồ riêng... Trương Hảo Hợp và Phan Huy Chú đều cách chức, theo bộ ra sức làm việc để chuộc tội.[9]
Năm sau (Nhâm Thìn 1832), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội. Năm Quý Tỵ, (1833), trở về, ông được bổ làm Tư vụ bộ Công.
Cho Phan Huy Chú đã bị cách lại được khai phục làm Tư vụ ngạch ngoại bộ Công. Chú, trước đây, vâng mệnh đi sứ, vì có lỗi phải cách chức, bị phái đi hải ngoại để trổ sức làm việc. Đến bấy giờ làm xong việc công trở về, lại được dùng.[9]
Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất.
Mộ phần
sửaPhan Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi.[10] Phần mộ của ông hiện ở tại thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội). Đã sửa lại lần 1, lần 2 năm 2012 và được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2014.
Các tác phẩm chính
sửa- Lịch triều hiến chương loại chí [11]
- Hoàng Việt dư địa chí
- Mai Phong du Tây thành dã lục
- Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc)
- Hoa trình tục ngâm
- Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
- Lịch đại điển yếu thông luận, v.v...
Nhìn chung, Phan Huy Chú nổi tiếng là nhà nghiên cứu, biên khảo hơn là nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm có giá trị nhất của ông là bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Đây có thể xem là "bộ bách khoa toàn thư" đầu tiên của Việt Nam.[12] Kế tiếp, đáng kể nữa là bộ Hoàng Việt dư địa chí, ghi chép về địa lý Việt Nam.[12]
Thông tin thêm
sửaVợ của Phan Huy Chú là bà Nguyễn Thị Vũ, con gái Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (tức Nguyễn Gia Phan), người thôn Yên Lũng, Từ Liêm (nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội). Ông giỏi nghề thuốc, và từng làm quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn. Năm 1803, ông bị vua Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu cùng với Ngô Thì Nhậm.[13]
Có thông tin nghi vấn cho rằng, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon là hậu duệ của nhà bác học Phan Huy Chú.[14] Ngày 23 tháng 5 năm 2015, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon đã đến dâng hương tại nhà thờ dòng họ Phan Huy. Tuy nhiên trong lưu bút của mình, ông Ban chỉ ghi nhận mình là một "thành viên họ Phan" (tức là một người mang họ Phan), chứ không nói rõ là thành viên họ Phan Hàn Quốc, hay họ Phan Việt Nam (thậm chí dòng họ Phan Huy).[15] Họ Phan là một họ của người Á Đông, có cả ở Hàn Quốc, Trung Quốc lẫn Việt Nam.[15]
Tại Việt Nam, những con đường và ngôi trường mang tên ông từ thời kỳ thuộc địa đã không hề thay đổi cho đến nay mặc dù các con đường khác mang tên của các anh hùng dân tộc Việt Nam lại bị thay đổi qua nhiều biến thiên thời cuộc.
Xem thêm
sửa- Ngô Thì Nhậm
- Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
- Hoàng Việt dư địa chí
Chú thích
sửa- ^ Nguyễn Tuấn Thịnh, tr. 135.
- ^ a b c Theo "Tiểu sử Phan Huy Chú" in đầu tập 1 của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch).
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006, Lời giới thiệu.
- ^ Các sách ở mục tham khảo chỉ ghi quê gốc của Phan Huy Chú là xã Thu Hoạch, riêng có Tạ Ngọc Liễn (tr. 26) là ghi ông sinh ở Thụy Khuê, và ở đây tạm ghi theo ông. Có bài viết ghi ông sinh ra ở Thăng Long và lớn lên ở tổng Thụy Khê, nhưng không dẫn nguồn.
- ^ Căn cứ theo gia phả và tài liệu còn lưu lại của dòng họ Phan Huy. GS. Phan Huy Lê dẫn lại (tr. 160).
- ^ Kim Anh, tr. 51.
- ^ a b c Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 02). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- ^ Theo "Tiểu sử Phan Huy Chú" in đầu tập 1, sách đã dẫn. Ở đây, người viết ông không kể rõ là "lạm quyền" như thế nào.
- ^ a b Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 03). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- ^ Theo Trần Văn Giáp, tr. 551.
- ^ bản sao chữ Hán bộ Lịch triều hiến chương loại chí.
- ^ a b Nguyễn Lộc, tr. 1385.
- ^ Tạ Ngọc Liễn (tr. 26) và Kim Anh (tr.55).
- ^ “Ông Ban Ki-moon có gốc gác Việt Nam?”.
- ^ a b Thực hư chuyện ông Ban-Ki-Moon mang dòng dõi Việt, Dân trí, ngày 01/11/2015.
Sách tham khảo
sửa- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (toàn tập). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- Phần "Tiểu sử Phan Huy Chú" in đầu tập 1 của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch gồm 3 tập). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
- Phan Đăng, Lời nói đầu giới thiệu bộ sách "Hoàng Việt dư địa chí", in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
- Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (toàn tập). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
- Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
- Nguyễn Lộc, mục từ "Phan Huy Chú" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Nhiều tác giả, Phan Huy Chú và dòng họ Phan Huy. Sở Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình xuất bản, 1983. Trong đó, chủ yếu tham khảo 4 bài viết, là:
- -Phan Huy Lê, "Về dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn".
- -Tạ Ngọc Liễn, "Sự nghiệp còn mãi".
- -Kim Anh, "Vai trò gia đình với sự hình thành tài năng Phan Huy Chú".
- -Nguyễn Tuấn Thịnh, "Phan Huy Chú-Nhà thư tịch lớn".