Pomacanthus maculosus

loài cá

Pomacanthus maculosus là một loài cá biển thuộc chi Pomacanthus trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775.

Pomacanthus maculosus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Pomacanthus
Phân chi (subgenus)Arusetta
Loài (species)P. maculosus
Danh pháp hai phần
Pomacanthus maculosus
(Forsskål, 1775)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Chaetodon maculosus Forsskål, 1775
  • Holacanthus striatus Rüppell, 1836
  • Pomacanthops filamentosus Smith, 1955

Từ nguyên sửa

Từ định danh của loài trong tiếng Latinh được dịch nghĩa là "lốm đốm", hàm ý đề cập đến các vệt đốm màu xanh lam thẫm ở trên trán, gáy và nắp mang, và cũng có thể bao gồm các vệt vàng tươi ở giữa thân[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

P. maculosus có phạm vi phân bố ở Tây Bắc Ấn Độ Dương. Loài này được ghi nhận dọc theo các vùng biển bao quanh bán đảo Ả Rập, từ Biển Đỏ vòng xuống phía nam, băng qua bờ biển OmanYemen, ngược lên phía bắc đến vịnh Ba Tư; từ vịnh Aden, trải dài theo bờ biển Đông Phi đến Mozambique, bao gồm Seychelles ở ngoài khơi[1].

Từ năm 2000 đến 2009, loài này đã nhiều lần được quan sát ở ngoài khơi Pompano Beach, West Palm Beach, Boynton Beach, Juno Beach (đều là những thành phố thuộc bang Florida, Hoa Kỳ), nhiều khả năng là do sự phóng thích cá cảnh[3][4].

Không những thế, thông qua kênh đào Suez, P. maculosus đã tiến sâu vào phía đông Địa Trung Hải (biển Levant), khi chúng được ghi nhận lần lượt tại bờ biển LibanIsrael[5][6], và mở rộng phạm vi ra giữa Địa Trung Hải khi được biết đến thêm tại Malta[7].

 
Cá con

P. maculosus sống gần các rạn san hô và mỏm đá ngầm, thường thấy ở vùng biển có đáy bùn, độ sâu khoảng từ 4 đến ít nhất là 50 m[8].

Mô tả sửa

P. maculosus có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 50 cm[8]. Đầu và toàn thân của P. maculosus có màu xanh lam tím với một vệt đốm lớn màu vàng tươi ở giữa thân, trừ vây đuôi màu vàng nhạt (viền xanh lam sáng) và có các vệt màu xanh lam. Vảy ở trán, gáy và nắp mang có màu xanh thẫm hơn. Vây lưng và vây hậu môn có thể phát triển dài vượt qua vây đuôi. Cá con có màu xanh thẫm (gần như đen) với các dải sọc cong màu trắng và xanh óng; vây đuôi trong suốt[3][9].

Số gai vây lưng: 12–13; Số tia vây ở vây lưng: 21–23; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 19–20; Số tia vây ở vây ngực: 18–20[9].

Sinh thái sửa

Thức ăn chính của P. maculosushải miên (bọt biển) và những loài thuộc phân ngành Sống đuôi (hải tiêu). Loài này không tỏ ra sợ hãi khi bơi gần các thợ lặn[3]. Tuổi thọ lớn nhất được biết đến ở chúng là 36 năm tuổi[10].

Cá thể lai giữa P. maculosusPomacanthus semicirculatus đã được quan sát và ghi nhận tại vịnh Aden (thuộc bờ biển Yemen)[11]. Ngoài ra, P. maculosus còn lai tạp với hai loài cùng chi là Pomacanthus asfurPomacanthus chrysurus, đều đã được ghi nhận tại vùng biển Kenya[12].

P. maculosus là một loài thường được xuất khẩu trong ngành buôn bán cá cảnh. Tại BahrainQatar, những cá thể lớn còn được bày bán ở các chợ cá[1].

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c R. Pyle; L. A. Rocha; M. T. Craig (2010). Pomacanthus maculosus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165833A6144097. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165833A6144097.en. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b c P. J. Schofield (2021). Pomacanthus maculosus (Forsskål, 1775)”. Nonindigenous Aquatic Species Database. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2021.
  4. ^ P. J. Schofield; J. A. Morris; L. Akins (2009). “Field Guide to Nonindigenous Marine Fishes of Florida” (PDF). NOAA Technical Memorandum NOS NCCOS. 92: 36–37. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2021. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  5. ^ Michel Bariche (2009). “First record of the angelfish Pomacanthus maculosus (Teleostei: Pomacanthidae) in the Mediterranean” (PDF). aqua, International Journal of Ichthyology. 16 (1): 31–33.
  6. ^ Pierre Salameh và cộng sự (2012). “The first substantiated record of the yellowbar angelfish, Pomacanthus maculosus (Actinopterygii: Perciformes: Pomacanthidae) in the Mediterranean” (PDF). Acta Ichthyologica Et Piscatoria. 42 (1): 73–74.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ Julian Evans và cộng sự (2016). “First record of the yellowbar angelfish Pomacanthus maculosus (Forsskål, 1775) in the central Mediterranean (Maltese Islands)”. Journal of Applied Ichthyology. 32 (6): 1226–1228. doi:10.1111/jai.13188.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  8. ^ a b Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Pomacanthus maculosus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  9. ^ a b John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 255. ISBN 978-0824818081.
  10. ^ E. Grandcourt và cộng sự (2016). “Age-based life history parameters and status assessments of by-catch species (Lethrinus borbonicus, Lethrinus microdon, Pomacanthus maculosus and Scolopsis taeniatus) in the southern Arabian Gulf”. Journal of Applied Ichthyology. 26: 381–389.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ Jeremy M. Kemp (2000). “Hybridisation of the marine angelfishes Pomacanthus maculosus and P. semicirculatus in the Gulf of Aden” (PDF). Fauna of Arabia. 18: 357–367.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  12. ^ Federico Vitelli (2019). “Causes and possible consequences of hybridisation in angelfishes at Christmas Island”: tr.11. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)