Pomacanthus asfur

loài cá

Pomacanthus asfur là một loài cá biển thuộc chi Pomacanthus trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775.

Pomacanthus asfur
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Pomacanthus
Loài (species)P. asfur
Danh pháp hai phần
Pomacanthus asfur
(Forsskål, 1775)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Chaetodon asfur Forsskål, 1775

Từ nguyên sửa

Từ định danh asfur bắt nguồn từ Asfûr, tên thông thường trong tiếng Ả Rập của loài này và được gọi ở Yemen, cũng là nơi mà mẫu gốc được thu thập[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

P. asfur có phạm vi phân bố ở Tây Ấn Độ Dương. Loài này được ghi nhận từ Biển Đỏ trải dài xuống vịnh Aden và bờ biển Nam Oman, dọc theo bờ biển Đông Phi đến đảo Zanzibar ở phía nam[1][3].

Từ năm 1995 đến 2002, loài này đã được quan sát vài lần ở ngoài khơi Boca RatonDania Beach (đều là những thành phố thuộc bang Florida, Hoa Kỳ), nhiều khả năng là do phóng thích cá cảnh[4][5].

Bên cạnh đó, P. asfur còn được báo cáo là xuất hiện tại Malta ở Trung Địa Trung Hải dựa vào một mẫu vật trưởng thành được thu thập vào năm 2015[6], tuy nhiên, ảnh chụp mẫu vật cho thấy đó là Pomacanthus maculosus[7].

P. asfur sống gần các rạn san hô viền bờ và các hang động ở độ sâu khoảng từ 3 đến 30 m[1].

Mô tả sửa

P. asfur có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 40 cm[3]. P. asfur trưởng thành có thân màu xanh lam thẫm ở thân trước và màu xanh đen ở thân sau[7]. Đầu sẫm đen với một vệt màu vàng tươi ở giữa thân của nó. Vây đuôi có màu vàng tươi, không có đốm. Vảy ở thân trước, ngực và gáy có viền đen[8]. Vây lưng và vây hậu môn phát triển dài vượt qua vây đuôi. Cá con có màu xanh thẫm (gần như đen) với các dải sọc màu trắng và xanh óng; vây đuôi trong suốt[4].

P. asfurP. maculosus đều có vệt vàng trên thân, nhưng vệt vàng của P. maculosus nằm ở thân sau và không lan rộng lên vây lưng, còn vệt vàng của P. asfur nằm ngay giữa thân và lan rộng lên một phần vây lưng trước[7]. Những cá thể lai giữa hai loài này cũng đã được ghi nhận tại Kenya[9].

Số gai vây lưng: 12; Số tia vây ở vây lưng: 19–21; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 18–20; Số tia vây ở vây ngực: 17–18[8].

Sinh thái sửa

Thức ăn chính của P. asfurhải miên (bọt biển) và những loài thuộc phân ngành Sống đuôi. P. asfur khá nhát, hiếm khi bơi xa khỏi nơi ẩn náu nên không dễ tiếp cận chúng[1]. P. asfur thường sống đơn độc và rất hung hãn đối với đồng loại, trừ khi bắt cặp[3].

P. asfur thường được đánh bắt trong ngành buôn bán cá cảnh[1].

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e R. Pyle; L. A. Rocha; M. T. Craig (2010). Pomacanthus asfur. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165839A6145733. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165839A6145733.en. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b c Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Pomacanthus asfur trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ a b P. J. Schofield (2021). Pomacanthus asfur (Forsskål, 1775)”. Nonindigenous Aquatic Species Database. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  5. ^ P. J. Schofield; J. A. Morris; L. Akins (2009). “Field Guide to Nonindigenous Marine Fishes of Florida” (PDF). NOAA Technical Memorandum NOS NCCOS. 92: 32–33. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  6. ^ P. Karachle và cộng sự (2016). “New Mediterranean Biodiversity Records (March 2016)” (PDF). Mediterranean Marine Science. 17 (1): 230–252. doi:10.12681/mms.1684.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ a b c Julian Evans; Patrick J. Schembri (2017). “Not another frst: the 'first' Mediterranean record of Pomacanthus asfur (Forsskål, 1775) is probably based on a misidentifcation” (PDF). Cybium. 41 (1): 75–76.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  8. ^ a b John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 254. ISBN 978-0824818081.
  9. ^ Federico Vitelli (2019). “Causes and possible consequences of hybridisation in angelfishes at Christmas Island”: tr.11. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)