Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
Hưng Yên
|
|||
---|---|---|---|
Tỉnh | |||
Tỉnh Hưng Yên | |||
![]() Biểu trưng | |||
Không ảnh phường Phố Hiến Tượng đài Nguyễn Văn Linh | |||
Biệt danh | Xứ nhãn lồng | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | ![]() | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng (địa lý) Vùng thủ đô Hà Nội (đô thị) | ||
Trung tâm hành chính | Phường Phố Hiến | ||
Trụ sở UBND | Số 10, đường Chùa Chuông, phường Phố Hiến | ||
Phân chia hành chính | 11 phường, 93 xã | ||
Thành lập |
| ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Nguyễn Khắc Thận | ||
Hội đồng nhân dân | 53 đại biểu | ||
Chủ tịch HĐND | Trần Quốc Văn | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Nguyễn Mạnh Hùng | ||
Chánh án TAND | Lê Văn Tuấn | ||
Viện trưởng VKSND | Nguyễn Văn Viện | ||
Bí thư Tỉnh ủy | Nguyễn Hữu Nghĩa | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 20°51′16″B 106°00′58″Đ / 20,85432°B 106,016006°Đ | |||
| |||
Diện tích | 2.514,81 km²[1] | ||
Dân số (2025) | |||
Tổng cộng | 3.567.943 người[1] | ||
Thành thị | 553.505 người (15,51%) | ||
Nông thôn | 3.014.438 người (84,49%) | ||
Mật độ | 1.418 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh | ||
Kinh tế (2022) | |||
GRDP | 131.642 tỉ đồng (5,72 tỉ USD) | ||
GRDP đầu người | 102,3 triệu đồng (4.396 USD) | ||
Khác | |||
Mã địa lý | VN-66 | ||
Mã hành chính | 33[2] | ||
Mã bưu chính | 16xxxx | ||
Mã điện thoại | 221 | ||
Biển số xe | 89, 17 | ||
Website | hungyen | ||
Hưng Yên là vùng đất lưu giữ nhiều di tích lịch sử với truyền thống và văn hóa lâu đời, là quê hương của nhiều danh nhân và nhà lãnh đạo như Triệu Việt Vương, Trần Thủ Độ, Phạm Ngũ Lão, Hải Thượng Lãn Ông, Lê Quý Đôn, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Văn Linh, Tô Lâm...
Phố Hiến, trung tâm hành chính của tỉnh ngày nay, là một thương cảng cổ vang danh xứ Bắc ở thế kỷ XVII - XVIII. Danh tiếng phồn hoa một thời được thể hiện qua câu ca: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, nơi đây từng được sánh ngang với kinh đô Thăng Long về sự sầm uất với luồng thuyền bè, thương nhân đến từ hơn 10 quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha...
Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hưng Yên đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa các trung tâm kinh tế lớn. Hưng Yên hiện nay cũng đang phát triển mạnh mẽ về công nghiệp và dịch vụ, hướng tới mục tiêu xây dựng đô thị văn minh và hiện đại, song vẫn giữ gìn nét đẹp văn hóa truyền thống của vùng đất "Phố Hiến xưa".
Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, sau khi sáp nhập với tỉnh Thái Bình, tỉnh Hưng Yên có diện tích: 2.514,81km² (xếp thứ 34); dân số: 3.567.943 người (xếp thứ 16); GRDP năm 2024: 292.602.496 triệu VNĐ (xếp thứ 12); thu ngân sách năm 2024: 53.112.677 triệu VNĐ (xếp thứ 10); thu nhập bình quân năm 2024: 69,93 triệu VNĐ/năm (xếp thứ 6).[3]
Lịch sử
sửaTỉnh Hưng Yên phần thuộc thừa tuyên Sơn Nam đặt vào năm Quang Thuận thứ 10 đời Lê (1466). Đến năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) thì chia thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Đời nhà Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Sơn Nam Thượng đổi thành trấn Sơn Nam còn Sơn Nam Hạ thì gọi là trấn Nam Định. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), tỉnh Hưng Yên được thành lập gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định. Năm 1842, đổi tên huyện Phù Dung thành huyện Phù Cừ.[4] Năm Tự Đức thứ 15 (1862), đổi huyện Thiên Thi thành huyện Ân Thi.
Ngày 21 tháng 3 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm các huyện Vũ Tiên, Thư Trì, Chân Định, Tiền Hải, Đông Quan, Thuỵ Anh, Thanh Quan, Quỳnh Côi và Phụ Dực tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên).
Ngày 25 tháng 2 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, gồm 4 huyện:
- Huyện Yên Mỹ: được thành lập từ một số tổng huyện Đông Yên, Ân Thi của tỉnh Hưng Yên; một số tổng của huyện Mỹ Hào của tỉnh Hải Dương, một số tổng của huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh
- Huyện Mỹ Hào: gồm các tổng còn lại sau khi cắt sang huyện Yên Mỹ.
- Huyện Cẩm Lương: gồm một số tổng thuộc huyện Cẩm Giàng của tỉnh Hải Dương, một số tổng thuộc huyện Lương Tài và Siêu Loại của tỉnh Bắc Ninh
- Huyện Văn Lâm: chính thức được thành lập gồm một số tổng thuộc 3 huyện Văn Giang, Gia Lâm và Siêu Loại của tỉnh Bắc Ninh.
Trong năm 1891, hai lần Toàn quyền Đông Dương ra nghị định (12-4) và quyết định (32-11) để bãi bỏ đạo Bãi Sậy, nhập các huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm vào tỉnh Hưng Yên.
Ngày 28 tháng 11 năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.
Ngày 4 tháng 2 năm 1895, Kinh lược sứ Bắc Kỳ ra quyết định sáp nhập các làng Kỳ Bá, Bồ Xuyên vào phủ lỵ Kiến Xương để lập thị xã Thái Bình.
Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, các huyện có sở lỵ phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng, Đông Yên thành Khoái Châu.
Khi đó, tỉnh Thái Bình có 13 đơn vị hành chính gồm thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Kiến Xương, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hưng, Vũ Tiên.
Ngày 15 tháng 8 năm 1946, theo Nghị định số 1216 của Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ thành lập thị xã Hưng Yên gồm 2 khu phố Đằng Giang và Đầu Lĩnh.
Tháng 2 năm 1947, huyện Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên.
Lúc này, tỉnh Hưng Yên gồm các thị xã Hưng Yên và các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu, Kim Động, Ân Thi, Tiên Lữ và Phù Cừ.
Ngày 2 tháng 12 năm 1955, điều chỉnh địa giới của các huyện Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thụy Anh, Tiên Hưng, Tiền Hải.[5]
Ngày 28 tháng 2 năm 1958, điều chỉnh địa giới của ba huyện Phụ Dực, Quỳnh Côi và Thụy Anh.[6]
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, xã Văn Đức thuộc huyện Văn Giang được sáp nhập về huyện Gia Lâm của thành phố Hà Nội.[7]
Ngày 19 tháng 4 năm 1963, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Vũ Tiên và Thư Trì để mở rộng thị xã Thái Bình.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương được sáp nhập với nhau, lấy tên là tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ được đặt tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương).[8]
Ngày 17 tháng 6 năm 1969, 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Hòa Bình, Chi Lăng và Tây Đô của huyện Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Hưng Hà; huyện Đông Quan và phần còn lại của huyện Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Đông Hưng; 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực hợp nhất thành huyện Quỳnh Phụ; 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh hợp nhất thành huyện Thái Thụy; 13 xã của huyện Vũ Tiên được sáp nhập vào huyện Kiến Xương, phần còn lại của huyện Vũ Tiên và Thư Trì hợp nhất thành huyện Vũ Thư.Tỉnh Thái Bình còn 1 thị xã và 7 huyện.[9]
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên; hợp nhất 2 huyện Văn Giang và Yên Mỹ thành huyện Văn Yên; hợp nhất 2 huyện Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Văn Mỹ.[10]
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, hợp nhất 2 huyện Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi; hợp nhất huyện Văn Mỹ và 1 phần huyện Văn Yên thành huyện Mỹ Văn; hợp nhất phần còn lại của huyện Văn Yên và huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang.[11]
Ngày 4 tháng 1 năm 1982, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kim Thi để mở rộng thị xã Hưng Yên.
Ngày 8 tháng 4 năm 1982, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Vũ Thư để mở rộng thị xã Thái Bình.
Ngày 20 tháng 3 năm 1986, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Vũ Thư và Đông Hưng để mở rộng thị xã Thái Bình.
Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia huyện Kim Thi thành 2 huyện: Kim Động và Ân Thi.[12]
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hưng Yên từ tỉnh Hải Hưng. Sau khi tách ra, tỉnh Hưng Yên có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện: Ân Thi, Châu Giang, Kim Động, Mỹ Văn, Phù Tiên.[13]
Ngày 24 tháng 2 năm 1997, chia huyện Phù Tiên thành 2 huyện: Phù Cừ và Tiên Lữ.[14]
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, chia huyện Châu Giang thành 2 huyện: Khoái Châu và Văn Giang; chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ.[15]
Ngày 23 tháng 9 năm 2003, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kim Động và Tiên Lữ để mở rộng thị xã Hưng Yên.[16]
Ngày 18 tháng 4 năm 2003, thị xã Thái Bình được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, chuyển thị xã Thái Bình thành thành phố Thái Bình. Tỉnh Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2007, thị xã Hưng Yên đã chính thức trở thành đô thị loại III theo Quyết định số 1012/QĐ-BXD ngày 17 tháng 7 năm 2007 của Bộ Xây dựng.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, chuyển thị xã Hưng Yên thành thành phố Hưng Yên.[17]
Ngày 6 tháng 8 năm 2013, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kim Động và Tiên Lữ để mở rộng thị xã Hưng Yên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2418/QĐ-TTg công nhận thành phố Thái Bình là đô thị loại II.
Ngày 1 tháng 5 năm 2019, chuyển huyện Mỹ Hào thành thị xã Mỹ Hào.[18]
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15[1] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 12 tháng 6 năm 2025). Theo đó, sáp nhập tỉnh Thái Bình vào tỉnh Hưng Yên, trung tâm hành chính đặt tại tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Địa lý
sửaVị trí và lãnh thổ
sửaTỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, có vị trí địa lý:
- Phía Đông giáp với Vịnh Bắc Bộ (thuộc Biển Đông) và thành phố Hải Phòng.
- Phía Tây giáp với thủ đô Hà Nội.
- Phía Nam giáp với tỉnh Ninh Bình.
- Phía Bắc giáp với thành phố Hải Phòng và tỉnh Bắc Ninh.
Tỉnh Hưng Yên thuộc quy hoạch Vùng thủ đô Hà Nội. Trung tâm hành chính của tỉnh đặt tại phường Phố Hiến, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 60 km về phía Đông Nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 112 km về hướng Tây Nam theo đường bộ.
Sau khi hợp nhất với tỉnh Thái Bình, diện tích của tỉnh Hưng Yên là 2.514,81 km², đứng hạng 34 trên tổng số 34 tỉnh/thành phố sau sáp nhập, là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam.
Điều kiện tự nhiên
sửaĐịa hình
sửaĐịa hình của tỉnh Hưng Yên rất bằng phẳng, không có núi, đồi, chủ yếu là đất phù sa màu mỡ, đặc trưng của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Độ cao trung bình dao động từ 2 đến 6 mét so với mực nước biển và có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Địa hình không có đồi núi hay vùng cao, ít bị chia cắt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng và tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Hưng Yên có mạng lưới ao, hồ, đầm và sông ngòi khá dày đặc với 4 hệ thống sông lớn chảy qua: sông Hồng (lớn nhất), sông Đuống, sông Luộc, sông Trà Lý. Bên cạnh đó, Hưng Yên còn có các hệ thống sông nhỏ hơn như: sông Cửu An, sông Kẻ Sặt, sông Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn (đều thuộc hệ thống sông Bắc Hưng Hải), sông Hóa, sông Diêm Hộ... là điều kiện thuận lợi không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà còn cho sự phát triển công nghiệp, sinh hoạt và giao thông đường thuỷ.
Sau khi hợp nhất với tỉnh Thái Bình, tỉnh Hưng Yên có khoảng hơn 52 km bờ biển, có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển như cửa Thái Bình, cửa Diêm Hộ, cửa Ba Lạt, tạo nên vùng cửa sông - ven biển giàu phù sa.
Khí hậu
sửaHưng Yên thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,2°C, nhiệt độ trung bình mùa hè 25°C, mùa đông dưới 20°C. Lượng mưa trung bình dao động trong khoảng 1.500 - 1.600 mm, trong đó tập trung vào tháng 5 đến tháng 10 mưa (chiếm 80 - 85% lượng mưa cả năm). Số giờ nắng trung bình hàng năm khoảng 1.400 giờ (116,7 giờ/tháng), trong đó từ tháng 5 đến tháng 10 trung bình 187 giờ nắng/tháng, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trung bình 86 giờ nắng/tháng.
Khí hậu Hưng Yên chia làm 2 mùa chính: mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với Gió mùa Đông Bắc là chủ đạo, thời tiết nửa đầu mùa đông là kiểu thời tiết lạnh khô, nửa cuối mùa đông là kiểu thời tiết lạnh ẩm. Mùa hạ từ tháng 5 đến tháng 9 với hướng gió chủ đạo là gió mùa Đông Nam thời tiết nóng và mưa nhiều.
Dữ liệu khí hậu của Hưng Yên | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 32.0 (89.6) |
32.6 (90.7) |
37.0 (98.6) |
37.4 (99.3) |
38.5 (101.3) |
39.4 (102.9) |
38.4 (101.1) |
37.5 (99.5) |
35.2 (95.4) |
34.0 (93.2) |
34.5 (94.1) |
30.5 (86.9) |
39.4 (102.9) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 19.5 (67.1) |
19.7 (67.5) |
22.3 (72.1) |
26.7 (80.1) |
30.9 (87.6) |
32.4 (90.3) |
32.7 (90.9) |
31.7 (89.1) |
30.5 (86.9) |
28.3 (82.9) |
25.2 (77.4) |
21.7 (71.1) |
26.8 (80.2) |
Trung bình ngày °C (°F) | 16.2 (61.2) |
16.9 (62.4) |
19.6 (67.3) |
23.5 (74.3) |
27.0 (80.6) |
28.6 (83.5) |
29.0 (84.2) |
28.4 (83.1) |
27.1 (80.8) |
24.5 (76.1) |
21.1 (70.0) |
17.8 (64.0) |
23.3 (73.9) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 14.0 (57.2) |
15.0 (59.0) |
17.8 (64.0) |
21.4 (70.5) |
24.2 (75.6) |
25.8 (78.4) |
26.3 (79.3) |
25.8 (78.4) |
24.6 (76.3) |
21.8 (71.2) |
18.4 (65.1) |
15.1 (59.2) |
20.8 (69.4) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | 4.9 (40.8) |
5.3 (41.5) |
6.6 (43.9) |
12.2 (54.0) |
16.5 (61.7) |
19.4 (66.9) |
20.6 (69.1) |
21.8 (71.2) |
16.5 (61.7) |
12.5 (54.5) |
8.4 (47.1) |
4.8 (40.6) |
4.8 (40.6) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 26 (1.0) |
25 (1.0) |
48 (1.9) |
92 (3.6) |
172 (6.8) |
229 (9.0) |
219 (8.6) |
286 (11.3) |
261 (10.3) |
187 (7.4) |
75 (3.0) |
24 (0.9) |
1.644 (64.7) |
Số ngày giáng thủy trung bình | 9.1 | 12.8 | 16.6 | 13.8 | 13.1 | 14.2 | 13.1 | 15.5 | 13.7 | 11.2 | 7.3 | 5.5 | 146.0 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 85.2 | 87.6 | 90.1 | 89.8 | 86.2 | 84.4 | 84.0 | 87.1 | 86.9 | 84.8 | 82.6 | 82.4 | 85.9 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 75 | 42 | 49 | 93 | 187 | 178 | 205 | 179 | 179 | 173 | 139 | 127 | 1.625 |
Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology[19] |
Tài nguyên và khoáng sản
sửaHưng Yên không có nhiều nguồn tài nguyên và khoáng sản. Các loại tài nguyên và khoáng sản chính gồm: cát đen, đất sét, nước khoáng và than nâu. Trong đó, cát đen là khoáng sản có trữ lượng lớn và được khai thác phổ biến nhất, tập trung ở ven sông Hồng sông Luộc và sông Trà Lý. Ngoài ra, Hưng Yên còn có mỏ than nâu ở huyện Khoái Châu, khí đốt ở Tiền Hải và nguồn nước khoáng ở huyện Văn Lâm.
Kinh tế
sửaHưng Yên là tỉnh thuộc tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, nền kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày và được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và cao.
Công nghiệp và xây dựng
sửaCơ cấu kinh tế của tỉnh đang dần chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp và xây dựng có bước phát triển khá, tuy còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng tỉnh vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phát triển, lựa chọn các mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Các sản phẩm công nghiệp chính của tỉnh là dệt may, giày dép, thép xây dựng, ô tô, xe máy, điện tử, điện dân dụng, công nghiệp thực phẩm, cơ khí chính xác, công nghiệp hỗ trợ...
Hưng Yên là một trong những địa phương có hệ thống khu công nghiệp (KCN) phát triển năng động ở vùng đồng bằng sông Hồng, đóng vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Tỉnh hiện có 11 KCN được quy hoạch với tổng diện tích hơn 3.000 ha, trong đó nhiều khu đã hoàn thiện hạ tầng hiện đại, đồng bộ như KCN Thăng Long II, Phố Nối A, Phố Nối B, Yên Mỹ, Minh Đức, Minh Quang...
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trên bản đồ kinh tế toàn cầu, Hưng Yên nổi lên như một điểm sáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài (FDI). Nhờ vị trí chiến lược, hạ tầng đồng bộ và chính sách thu hút đầu tư linh hoạt, tỉnh đang sẵn sàng đón nhận “làn sóng” đầu tư FDI mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển bền vững. Tính đến cuối năm 2024, Hưng Yên đã đăng ký 613 dự án FDI, với tổng vốn đạt gần 8,5 tỷ USD, trong đó Nhật Bản đóng góp lớn nhất (~ 3,8 tỷ USD), Hàn Quốc (~ 1,4 tỷ USD) và Trung Quốc (~ 1,3 tỷ USD).[20]
Theo Quyết định 489/2024 của Thủ tướng, tỉnh có kế hoạch phát triển 35 KCN với quy mô hơn 12.000 ha, trong đó 12 khu đã được xây dựng với tổng diện tích khoảng 3.123 ha, 10 KCN đang hoạt động và tiếp nhận dự án thứ cấp, khoảng 2.500 ha đất công nghiệp sẵn sàng cho thuê.[21]
Nông nghiệp, chăn nuôi và thủy sản
sửaNông nghiệp của tỉnh Hưng Yên đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, mặc dù tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế chỉ chiếm khoảng 6 - 7%. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ, hệ thống sông ngòi dày đặc, Hưng Yên phát triển nền nông nghiệp đa dạng và hiệu quả, nổi bật với các vùng chuyên canh trồng lúa, rau, cây ăn quả (nhãn, vải, chuối, ổi, cam, bưởi...) hay cây cảnh (hoa, quất, cam, bưởi...). Đặc biệt, nhãn lồng Hưng Yên từ lâu đã trở thành món đặc sản, là sản vật "tiến vua" có thương hiệu nổi tiếng cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Về cây trồng, diện tích gieo cấy lúa là 48.976 ha với năng suất trung bình đạt hơn 59,3 tạ/ha, mặc dù giảm so với kế hoạch (94,2%) và thấp hơn năm 2023.[22] Đáng chú ý, tổng diện tích cây ăn quả đạt 15.381 ha, bao gồm nhãn (5.000 ha, sản lượng 40 - 45 nghìn tấn), vải (1.300 ha, 17 nghìn tấn), chuối (2.500 ha, 50 - 70 nghìn tấn) và cam, bưởi với sản lượng từ 27 nghìn tấn trở lên.[23]
Về chăn nuôi gia súc, gia cầm của tỉnh cũng phát triển mạnh, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Với đàn lợn đạt khoảng 520.000 con, gia cầm 9,4 triệu con, trâu bò 36.000 con; toàn tỉnh đạt sản lượng thịt hơi hơn 157,7 nghìn tấn và trứng trên 483 triệu quả.[23]
Trong thủy sản, diện tích nuôi trồng khoảng 5.200 - 5.750 ha, với sản lượng đạt hơn 50 - 55 nghìn tấn; đến cuối năm 2024, quy mô nuôi chuyển từ hộ cá nhân sang mô hình hợp tác, ứng dụng kỹ thuật nuôi lồng bè, ao bán nổi nhằm nâng cao hiệu quả.[24]
Trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp tỉnh đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển theo hướng “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) và sản xuất theo chuỗi giá trị và VietGAP, với hơn 3.100 ha rau củ quả áp dụng VietGAP, 198 mô hình cánh đồng lớn gần 3.500 ha, và chuyển đổi hơn 1.200 ha đất trồng kém hiệu quả sang cây lâu năm giá trị cao, từng bước nâng cao giá trị sản xuất và xây dựng thương hiệu cho nông sản địa phương.[24] Tuy nhiên, tỷ lệ sản phẩm đạt chuẩn VietGAP chỉ chiếm khoảng 30 - 40% sản lượng và còn hạn chế trong khâu chế biến, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân.[23]
Năm 2024, ngành nông nghiệp và thủy sản của Hưng Yên đạt giá trị sản xuất khoảng 14.053 tỷ đồng, giảm 1,55% so với năm 2023 - trong đó nông nghiệp đạt 12.237 tỷ đồng (giảm 1,6%) và thủy sản đạt 1.571 tỷ đồng (giảm 0,8%).[22] Dù gặp bất lợi do thiên tai như bão gây ngập úng gần 19.000 ha cây trồng và nhiều lồng bè, các biện pháp kỹ thuật và cơ chế hỗ trợ đã giúp tỉnh Hưng Yên phục hồi sản xuất nhanh chóng.
Thương mại và dịch vụ
sửaĐể định hướng phát triển hệ thống hạ tầng thương mại theo quy hoạch, tỉnh đã thu hút, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối nông sản ở các địa phương trong tỉnh, nổi bật là các dự án Trung tâm thương mại Vincom Mega Mall Ocean City, Trung tâm thương mại GO! Hưng Yên, Trung tâm thương mại Như Quỳnh Center, Trung tâm hội nghị Lam Sơn, Chợ đầu mối nông sản sông Hồng...
Trong 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn tỉnh đạt trên 51,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt trên 16,5 nghìn tỷ đồng; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt trên 1,4 nghìn tỷ đồng; doanh thu dịch vụ du lịch và lữ hành đạt 34 tỷ đồng; còn lại là doanh thu các ngành dịch vụ khác. Kim ngạch xuất khẩu đạt 3.250 triệu USD.[25]
Về thương mại điện tử (TMÐT) và kinh tế số, năm 2024, chỉ số TMĐT của tỉnh Hưng Yên vượt lên đứng thứ 10/58, tăng 2 bậc so với năm 2023. Các hoạt động xúc tiến thương mại của tỉnh cũng được sở kết hợp ứng dụng TMÐT nhằm quảng bá nông sản đặc trưng của tỉnh đến gần hơn với khách hàng. Tỉ lệ dân số trong tỉnh tham gia mua sắm trực tuyến đạt 55%; tỉ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong TMÐT đạt 55%; tỉ lệ giao dịch mua hàng trên website hoặc ứng dụng TMÐT có hóa đơn điện tử đạt 70%; tỉ lệ xã và các đơn vị hành chính tương đương có thương nhân thực hiện hoạt động bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ trực tuyến đạt 90%.[26]
Tăng trưởng
sửaNăm 2022, Hưng Yên có quy mô GRDP đạt 132.176 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 102,3 triệu đồng/người tương ứng với 4.396 USD (xếp thứ 12 cả nước và thứ 6 khu vực Bắc Bộ), tốc độ tăng trưởng GRDP trung bình hàng năm giai đoạn 2011-2020 trên 7,5%.[27] Năm 2022, tăng trưởng GRDP đạt 13,4%, đứng thứ 5 toàn quốc.[28]
Năm 2024, kinh tế tỉnh Hưng Yên tiếp tục đà phát triển vững mạnh bất chấp những khó khăn từ thiên tai như bão Yagi và mưa lũ; GRDP tăng 7,7% so với năm trước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ: công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 62,7%, nông‑lâm‑thủy sản 6,7%, thương mại‑dịch vụ 24,9% và thuế sản phẩm 5,8%. Bình quân GRDP đầu người đạt 121,27 triệu đồng (tăng gần 8,8 triệu đồng so với năm 2023). Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 75.200 tỷ đồng, tăng 10,03%. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 40.477 tỷ đồng, tăng 24,8% so với năm 2023 và đạt 123,32% kế hoạch năm, trong đó nội địa 35.811 tỷ và xuất‑nhập khẩu 4.666 tỷ đồng, vượt 23 - 26% so với kế hoạch. Quy mô nền kinh tế của tỉnh đạt 159.844 tỷ đồng, là một trong những tỉnh có mật độ kinh tế cao của vùng và của cả nước, đạt 172 tỷ đồng/km².[29]
Đây là những minh chứng rõ ràng cho thấy Hưng Yên không chỉ giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô mà còn tăng trưởng nhanh về quy mô, năng suất lao động, nguồn thu ngân sách và đổi mới môi trường đầu tư - nền tảng quan trọng để địa phương này hướng đến mục tiêu tăng trưởng 8% năm 2025.
Xã hội
sửaDân cư
sửaTính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, tỉnh Hưng Yên có diện tích là 930,20km², dân số đạt 1.284,600 người. Dân số thành thị là 213.600 người (16,63%), dân số nông thôn là 1.071.000 người (83,37%). Dân số nam là 644.100 người, dân số nữ là 640.400 người.[30]
Năm 2024, Hưng Yên có dân số toàn tỉnh đạt khoảng 1.313.800 người, theo kết quả Tổng điều tra dân số giữa kỳ tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2024. Trong đó, khu vực đô thị chiếm khoảng 250.000 người, còn lại hơn 1.060.000 người sống ở nông thôn. Tỉnh nằm trong top 28 tỉnh có quy mô dân số lớn (chiếm khoảng 1,3% dân số cả nước) , với mật độ dân số cao - khoảng 1.412 người/km², đứng thứ 4 cả nước.[31]
Về cơ cấu dân số, đồng bào Kinh chiếm áp đảo với tỷ lệ lên tới 99,15%, phần nhỏ còn lại gồm một số dân tộc thiểu số như Tày, Thái, Mường… (mỗi nhóm dưới 0,3%). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và di cư giữ ở mức ổn định, tăng trưởng dân số bình quân ~0,98%, với tỷ số giới tính khoảng 100,9 nam trên 100 nữ.[32] Về lao động, tỉnh có hơn 51% dân số trong độ tuổi lao động, trong đó khoảng 57.000 lao động trẻ, có trình độ cao, và khoảng 25% người lao động được đào tạo, qua đó cung cấp nguồn nhân lực cho khu công nghiệp và dịch vụ địa phương.
Hành chính
sửaTỉnh Hưng Yên chia thành 104 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 11 phường và 93 xã.[33]
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Hưng Yên[34] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
|
|
Tôn giáo
sửaTính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 40.858 người theo tôn giáo với 5 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 26.226 người, tiếp theo là Phật giáo có 4.556 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 72 người, Hồi giáo có 3 người và Phật giáo Hòa Hảo có 1 người.[35]
Giáo dục
sửaTính đến năm 2024, toàn tỉnh có 486 trường ở các cấp học, trong đó 398 trường đạt chuẩn quốc gia (~ 82%) và 78 trường kiểm định chất lượng giáo dục. Hưng Yên đặc biệt chú trọng giáo dục mũi nhọn và giáo dục toàn diện, với nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Năm 2024, tỉnh có 60/90 thí sinh dự thi đạt giải trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia, tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT của tỉnh Hưng Yên là 99,53%.[36] Tỉnh còn đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục, xây dựng trường học thông minh và số hóa giáo dục với hệ thống trường, lớp học được đầu tư đồng bộ, hiện đại, chuẩn hóa, đáp ứng tốt nhu cầu giảng dạy và học tập, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương và đất nước.
Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông, tỉnh còn là nơi đặt trụ sở của nhiều cơ sở và chi nhánh đào tạo đại học và cao đẳng như:
- Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
- Đại học Bách Khoa Hà Nội (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Mở Hà Nội (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Thủy Lợi (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Y Dược Thái Bình
- Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh
- Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam
- Trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam
- Trường Đại học Thái Bình
- Trường Đại học Chu Văn An
- Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình
- Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình
- Trường Cao đẳng Công nghiệp Hưng Yên
- Trường Hải quan Việt Nam
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên là một trong những đội tuyển Robocon thường xuyên góp mặt trong trận chung kết và đạt thành tích cao tại các cuộc thi trong nước và quốc tế. Đây là một sân chơi truyền thống, nơi sinh viên thể hiện kỹ năng lập trình, chế tạo, cơ khí và áp dụng trí tuệ nhân tạo vào robot. Đặc biệt, năm 2015, đội tuyển của trường đã giành chức vô địch Robocon Việt Nam (lần đầu, lần thứ 2 vào năm 2024) để giành vé đại diện cho Việt Nam tham dự vòng chung kết Robocon Châu Á Thái Bình Dương 2015 tại Indonesia, nơi họ trở thành quán quân để mang chức vô địch lần thứ 5 về cho Việt Nam.
Y tế
sửaĐến năm 2024, toàn tỉnh có 2 bệnh viện đa khoa, 6 bệnh viện chuyên khoa cấp tỉnh, 10 trung tâm y tế cấp huyện và 155 trạm y tế xã, phường, thị trấn. Tính đến hết năm 2023, 100% trạm y tế xã thực hiện tối thiểu 90% kỹ thuật tuyến cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt gần 94%, giúp giảm gánh nặng chi phí khám chữa bệnh; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi đạt dưới 19,4%; tuổi thọ trung bình đạt 75,50 tuổi; tổng tỷ suất sinh đạt 2,3 con/1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ; duy trì mức sinh thay thế, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,63%; tỷ lệ khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi đạt 85%.[37]
Năm 2024, UBND tỉnh Hưng Yên cũng đã ký kết hợp tác chuyển giao kỹ thuật chuyên sâu và hỗ trợ y tế với Bệnh viện Bạch Mai; trong đó trọng tâm chuyển giao chuyên môn, kỹ thuật y học thực hành, bao gồm các lĩnh vực: Tim mạch; Tiết niệu và Lọc máu; Hồi sức cấp cứu, Xét nghiệm, Chống độc; Thần kinh, Cơ - xương khớp; Nội tiết, Tiêu hóa, Hô hấp, Dị ứng miễn dịch lâm sàng, Huyết học - Truyền máu, Phục hồi chức năng, Tâm thần, Ngoại khoa, Nhi khoa, Sản khoa, Dinh dưỡng, Truyền nhiễm, Chẩn đoán hình ảnh... Bệnh viện cam kết hỗ trợ ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và marketing; hỗ trợ, tư vấn dịch vụ y tế kỹ thuật cao; tư vấn, hỗ trợ thành lập và triển khai các dịch vụ y tế chất lượng cao tại các đơn vị y tế tỉnh Hưng Yên.[37]
Tuy vậy, ngành Y tế của tỉnh vẫn phải đối mặt với một số vấn đề và hạn chế như tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn cao; đầu tư khoa học kỹ thuật và quản lý nhân lực tại tuyến cơ sở chưa tương xứng; thiếu nguồn nhân lực đội ngũ bác sĩ chuyên sâu thuộc các chuyên ngành; thiếu thuốc, vật tư y tế trong khám, điều trị. Để khắc phục những vấn đề này, tỉnh Hưng Yên cần tiếp tục nâng cao công tác chỉ đạo - điều hành; nâng cao chất lượng khám - chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, dân số - kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản; đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; tiếp tục củng cố và hoàn thiện tổ chức mạng lưới y tế các tuyến; đầu tư nâng cao năng lực hệ thống y tế, ưu tiên phát triển mạng lưới y tế cơ sở…
Văn hóa và du lịch
sửaLễ hội
sửa- Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung, còn gọi là Lễ hội Đền Đa Hòa - Dạ Trạch, là một trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước và đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2023. Lễ hội được tổ chức 3 năm một lần vào các ngày 10 đến 12 tháng Hai âm lịch tại hai địa điểm chính: Đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và Đền Dạ Trạch (xã Dạ Trạch), thuộc huyện Khoái Châu. Sự kiện nhằm tôn vinh công lao của đức thánh Chử Đồng Tử - một trong tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam và công chúa Tiên Dung - con gái Hùng Vương thứ 18, đã có công giúp dân làng khai phá đất đai, mở mang nghề nghiệp, chữa bệnh cứu người. Bên cạnh đó, lễ hội không chỉ ca ngợi tình yêu vĩnh cửu, thiêng liêng, vượt lên trên mọi hoàn cảnh mà còn đề cao những giá trị nhân văn sâu sắc như lòng hiếu thảo, đức độ, sự khoan dung và nhân ái trong cuộc sống.
- Lễ hội Văn hóa dân gian Phố Hiến, là một trong những sự kiện văn hoá lớn và lâu đời của tỉnh Hưng Yên, tổ chức hằng năm vào tháng Giêng âm lịch tại không gian di tích đặc biệt Phố Hiến như Văn miếu Xích Đằng, Đền Mẫu, Đền Trần, Đền Thiên Hậu, Chùa Chuông... với sự tham gia của 17 xã, phường thuộc thành phố Hưng Yên. Lễ hội nhằm giới thiệu và quảng bá các nét đẹp về văn hóa của đất và người Phố Hiến xưa. Đồng thời, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của địa phương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tín ngưỡng, tâm linh, tham quan các di tích lịch sử - văn hóa, công trình kiến trúc nghệ thuật của người dân.
- Lễ hội Cầu mưa, còn gọi là Lễ hội Tứ Pháp, được tổ chức từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Ba âm lịch hàng năm tại xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm. Đây là lễ hội truyền thống tiêu biểu gắn với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện) - những vị thần gắn liền với mưa gió, sấm chớp trong văn hóa nông nghiệp lúa nước. Được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2022, lễ hội thể hiện lòng thành kính, biết ơn các vị thần đã che chở, phù hộ dân làng, đồng thời khẳng định nguồn cội và bản sắc văn hóa của cộng đồng làng xã. Thông qua các nghi lễ và hoạt động truyền thống, lễ hội truyền tải ước vọng về mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống no ấm, đồng thời góp phần giáo dục thế hệ sau về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.
- Lễ hội Đền Tống Trân, là lễ hội truyền thống tiêu biểu của xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, diễn ra hàng năm từ 8 đến ngày 16 tháng Tư âm lịch. Lễ hội nhằm tưởng niệm Lưỡng quốc Trạng nguyên Tống Trân - bậc hiền tài nổi tiếng với đức hiếu và lòng trung. Năm 2021, lễ hội đã chính thức được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định giá trị truyền thống, văn hóa và lịch sử sâu sắc của lễ hội.
- Lễ hội Đền An Xá, hay còn gọi là Lễ hội Đậu An, được diễn ra hàng năm từ mùng 1 đến ngày 12 tháng Tư âm lịch tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ, là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Ngũ Lão tiên ông và các vị Thiên tiên, Địa tiên - những vị thần được tín đồ Đạo Giáo tôn kính và gắn liền với công lao khai hóa, diệt trừ thú dữ và dạy dân cày cấy. Năm 2023, Lễ hội Đậu An được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
- Lễ hội Đình Quan Xuyên, được diễn ra 3 năm một lần, vào ngày 11 - 13 tháng Hai âm lịch, tại xã Thành Công, huyện Khoái Châu. Lễ hội gắn liền với tín ngưỡng thờ Ngũ vị đẳng thần là: Đức thánh Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân, thành hoàng Vũ Quang Chiếu và Phạm Công Nghi. Đây là lễ hội phản ánh rõ nét tín ngưỡng đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước với nhiều nghi thức/trò chơi có liên quan đến nước và mặt trời - là những thành tố quan trọng liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Thông qua các nghi thức này, nhân dân muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, con người khỏe mạnh. Năm 2024, lễ hội chính thức được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
- Lễ hội Đền Phù Ủng, là một lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch tại xã Phù Ủng, huyện Ân Thi. Lễ hội nhằm tưởng niệm và tri ân công lao to lớn của danh tướng Phạm Ngũ Lão - vị tướng kiệt xuất dưới triều nhà Trần, người đã lập nhiều chiến công trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, lễ hội còn góp phần giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc cho các thế hệ. Đền Phù Ủng - nơi diễn ra lễ hội đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1988.
- Lễ hội Đền Mẫu, là một hoạt động văn hóa - tâm linh tiêu biểu trong quần thể di tích Phố Hiến, được tổ chức hằng năm từ ngày 10 đến 15 tháng Ba âm lịch. Lễ hội nhằm tưởng niệm và tôn vinh Dương Quý Phi - người được nhân dân địa phương kính trọng và thờ phụng sau khi bà đến sinh sống tại vùng đất này dưới thời Trần Nhân Tông. Với giá trị lịch sử sâu sắc, lễ hội không chỉ phản ánh đời sống tín ngưỡng phong phú của người dân thành phố mà còn góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của địa phương.
- Lễ hội Làng Nôm, được tổ chức hàng năm từ ngày 10 đến 12 tháng Giêng âm lịch tại làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm. Làng Nôm là một ngôi làng cổ tiêu biểu còn giữ được gần như nguyên vẹn kiến trúc truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ, với đình làng, chùa Nôm, cầu đá 9 nhịp, giếng cổ và hệ thống nhà thờ họ đặc trưng. Lễ hội nhằm tưởng nhớ Đức Thánh Tam Giang - Thành hoàng làng, đồng thời là dịp thể hiện lòng biết ơn tổ tiên và khẳng định truyền thống đoàn kết, hiếu nghĩa, trọng đạo lý của cộng đồng cư dân. Lễ hội Làng Nôm không chỉ mang giá trị tín ngưỡng mà còn góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống và quảng bá hình ảnh quê hương đến với bạn bè trong và ngoài nước.
- Lễ hội Nam Trì, được tổ chức hằng năm từ mùng 8 đến mùng 12 tháng Ba âm lịch tại xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi. Đây là một lễ hội tế thần truyền thống có nguồn gốc từ thế kỷ thứ II TCN, nhằm tôn vinh ba vị Thành hoàng làng: Bảo Công, Lang Công, Biền Công, những nhân vật lịch sử - huyền thoại có công diệt trừ ác, chữa bệnh cứu dân. Lễ hội không chỉ là dịp tri ân người có công mà còn là sự kiện văn hóa cộng đồng đậm chất lịch sử, phản ánh tín ngưỡng dân gian gắn liền với lòng hiếu nghĩa và tinh thần làng xã ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Lễ hội Chùa Ông, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, diễn ra vào ngày mùng 6 đến mùng 9 tháng Ba âm lịch hàng năm, đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025.
- Lễ hội Đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014.
- Lễ hội Chùa Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2017.
- Lễ hội Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội đền A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội Bổng Điền, xã Tân Lập, huyện Vũ Thư, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2023.
- Lễ hội Đền Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội Đền Lộng Khê, xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2017.
- Lễ hội Làng Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội Làng Thượng Liệt, xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2018.
Di tích lịch sử - văn hóa
sửaTỉnh Hưng Yên là một vùng đất cổ giàu truyền thống văn hiến, nơi lưu giữ hàng nghìn năm lịch sử và dấu ấn văn hóa đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng. Tỉnh hiện lưu giữ trên 1.802 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 180 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia và 6 di tích - khu di tích cấp Quốc gia đặc biệt, gồm:
- Khu di tích Phố Hiến, nằm tại thành phố Hưng Yên, được công nhận là di tích cấp Quốc gia đặc biệt năm 2014, là nơi hội tụ văn hóa Đông - Tây với 16 công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng tiêu biểu như: Văn miếu Xích Đằng, Chùa Chuông, Đền Mẫu, Đền Trần, Đình - Chùa Hiến, Đền Thiên Hậu, Đền Kim Đằng...[38]
- Khu di tích Đền Đa Hòa - Dạ Trạch, thuộc xã Bình Minh và xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, được công nhận là di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào năm 2024.[39]
- Đền An Xá, hay còn gọi là Đền Đậu An, tọa lạc tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ, là ngôi đền Đạo giáo cổ hiếm hoi với kiến trúc đá xanh độc đáo, được công nhận là di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào năm 2020.[40]
- Chùa Thái Lạc, thuộc xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào năm 2018.
- Chùa Keo, tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, đã được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia đặc biệt năm 2012.
- Khu di tích Đền thờ và Lăng mộ các vua Trần, thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, đã được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào năm 2015.
Ngoài ra, hàng trăm di tích đã được công nhận cấp tỉnh, tạo nên một mạng lưới di sản phong phú và đa dạng. Các di tích của Hưng Yên bao gồm nhiều loại hình như: di tích lịch sử cách mạng, đình - đền - chùa, miếu mạo, lăng mộ, nhà cổ, giếng làng... phản ánh đầy đủ các mặt đời sống vật chất và tinh thần của người Việt qua các thời kỳ.
Làng nghề truyền thống
sửaTỉnh Hưng Yên là vùng đất nổi tiếng không chỉ bởi bề dày lịch sử - văn hóa mà còn bởi hệ thống làng nghề truyền thống đa dạng và lâu đời, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Toàn tỉnh hiện nay có 64 làng nghề, trong đó có 8 làng nghề truyền thống, 47 làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận. Mỗi làng nghề mang một đặc trưng riêng gắn với điều kiện tự nhiên, tập quán và lịch sử địa phương. Một số làng nghề nổi tiếng có thể kể đến như:
- Làng nghề tương Bần Yên Nhân (phường Bần Yên Nhân, thị xã Mỹ Hào)
- Làng nghề hương Thôn Cao (xã Bảo Khê, thành phố Hưng Yên)
- Làng nghề long nhãn Hồng Nam (phường Hồng Nam, thành phố Hưng Yên)
- Làng nghề quất cảnh Đông Tảo Đông (xã Đông Tảo, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu)
- Làng nghề dệt vải, khăn Phương La (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà)
- Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm (xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương)
- Làng nghề dệt đũi Nam Cao (xã Thống Nhất, huyện Kiến Xương)
- Làng nghề rèn, cơ khí Vân Ngoại (xã Đồng Tiến, huyện Khoái Châu)
Không chỉ có giá trị về kinh tế, các làng nghề truyền thống ở Hưng Yên còn là kho tàng sống động của tri thức dân gian, kỹ thuật thủ công tinh xảo và đời sống văn hóa làng xã đặc trưng vùng Bắc Bộ, tạo nền tảng để phát triển du lịch trải nghiệm và gìn giữ di sản phi vật thể của quê hương nhãn lồng.
Ẩm thực
sửaẨm thực của tỉnh Hưng Yên mang đậm hương vị đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ với nhiều món đặc sản hấp dẫn từ bình dị, dân dã cho đến những món ngon công phu để "tiến vua".
Nổi bật nhất trong ẩm thực Hưng Yên là đặc sản nhãn lồng - loại trái cây xưa dùng để "tiến vua", nổi tiếng với vị ngọt thơm, cùi dày, hạt nhỏ, được chế biến thành nhiều món như long nhãn sấy, chè hạt sen long nhãn, long nhãn hầm hạt sen... không chỉ ngon mà còn bổ dưỡng. Từ nhãn, người dân còn phát triển nghề làm long nhãn xuất khẩu mang thương hiệu quốc gia.
Hưng Yên còn được biết đến với tương Bần - loại tương lên men từ đỗ tương, gạo nếp và muối, có màu vàng rất bắt mắt cùng với hương vị đậm đà, chua ngọt hài hòa và hương thơm đặc trưng. Trước đây, tương được dùng làm sản vật "tiến vua", ngày nay vẫn là món gia vị quen thuộc và biểu tượng ẩm thực của miền Bắc.
Một trong những sản vật "tiến vua" nức tiếng khác khiến du khách mong muốn về Hưng Yên thưởng thức chính là gà Đông Tảo - giống gà quý hiếm và đặc hữu của xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, hiện đang được bảo tồn nguồn gen. Gà Đông Tảo nổi bật với đôi chân to lớn, xù xì như vảy rồng, tạo nên dáng vẻ bệ vệ độc đáo. Gà trống trưởng thành có thể đạt trọng lượng trên 6 kg, với lớp da đỏ dày, thịt săn chắc và vị ngọt đậm đà đặc trưng. Giống gà này thường xuất hiện trong các dịp lễ, Tết, cưới hỏi, hoặc được chọn làm quà biếu cao cấp, có những con gà đẹp có thể được bán với giá hàng chục triệu đồng.
Ngoài ra, nền ẩm thực Hưng Yên còn rất nhiều món đặc sản khác có thể kể đến như: rượu Lạc Đạo, bún thang lươn Phố Hiến, bánh cuốn Phú Thị, bánh răng bừa Văn Giang, bánh dày làng Gàu, miến rong Lại Trạch, giò chả Trai Trang, bóng bì Bình Lương, bánh cáy làng Nguyễn, bánh cuốn Tiền Hải, chả gà Tiểu Quan, giò bì Phố Xuôi, ếch om Phượng Tường, bánh khúc Hưng Yên, canh cá rô đồng, cá mòi, mật ong hoa nhãn, vải trứng Hưng Yên, bưởi Hoàng, chuối tiêu hồng Khoái Châu, ổi Bo, đậu phụ làng Kênh, bánh nghệ Tiền Hải, gỏi nhệch, bún bung hoa chuối...
Thể dục và thể thao
sửaTính đến năm 2024, toàn tỉnh Hưng Yên có hơn 2.000 câu lạc bộ, điểm, nhóm thể dục - thể thao (TDTT) duy trì hoạt động thường xuyên. Số người tập luyện TDTT thường xuyên của tỉnh đạt tỉ lệ 35,5% so với dân số; số gia đình tập luyện TDTT thường xuyên đạt 30% so với tổng số hộ gia đình.[41] Các bộ môn thể dục - thể thao phổ biến ở tỉnh Hưng Yên gồm: bóng đá, bóng bàn, bóng chuyền, cầu lông, pencak silat, bi-a, đua thuyền (rowing), đá cầu, bơi lội...
Ngày 20 tháng 11 năm 2017, PVF tổ chức lễ khánh thành Trung tâm đào tạo bóng đá trẻ PVF (nay thuộc quản lý của Bộ Công an) tại xã Long Hưng, huyện Văn Giang. Trung tâm được xây dựng trên diện tích gần 22 ha với tiêu chuẩn quốc tế: có 7 sân cỏ chất lượng FIFA Quality Pro (1 sân thi đấu 3.600 chỗ, 6 sân tập), sân cỏ trong nhà, phòng tập giả lập 360s và thiết bị PlayerTek theo dõi hiệu suất thi đấu của cầu thủ đầu tiên tại châu Á.[42] PVF còn sở hữu tổ hợp khoa học thể thao hiện đại (gym, phục hồi chức năng) và ký túc xá 8 tầng tích hợp đầy đủ tiện nghi: thư viện, phòng chiếu phim, nhà ăn, phòng học chiến thuật. Ngày 24 tháng 9 năm 2020, trung tâm được Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) cấp chứng nhận AFC Three-Star Academy.[43] Đây là mức cao nhất trong thang điểm đánh giá chất lượng của hệ thống đào tạo bóng đá trẻ tại châu Á.
CLB bóng đá PVF–CAND (trước đây là CLB bóng đá Phố Hiến), là câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên của tỉnh Hưng Yên, hiện đang thi đấu tại V.League 2, có trụ sở và sân nhà đặt tại sân vận động PVF.
Ngày 28 tháng 10 năm 2022, Lễ khai mạc Đại hội TDTT tỉnh Hưng Yên đã được tổ chức long trọng tại Quảng trường Nguyễn Văn Linh. Đại hội TDTT tỉnh Hưng Yên là sự kiện thể thao quy mô lớn, được tổ chức định kỳ 4 năm một lần.[44] Đây là hoạt động có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, thể hiện sự quan tâm của tỉnh đối với sự phát triển TDTT trên địa bàn. Việc tổ chức Đại hội không chỉ góp phần thúc đẩy phong trào rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, mà còn tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, lợi ích thiết thực của thể dục thể thao trong việc nâng cao thể lực, tầm vóc và chất lượng cuộc sống của nhân dân, hướng tới phát triển con người toàn diện.
Hiện nay, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể thao tỉnh Hưng Yên đang quản lý và đào tạo 235 vận động viên thuộc 13 bộ môn thể thao khác nhau. Trong đó, pencak silat được xem là môn võ thuật thế mạnh số 1 của Hưng Yên tại đấu trường trong nước và quốc tế. Bộ môn này đã sản sinh ra nhiều vận động viên tiêu biểu như: Bùi Bá Đức, Vũ Duy Thành, Nguyễn Hữu Hùng, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thảo... Chỉ riêng trong năm 2024, pencak silat đã mang về cho thể thao tỉnh 37 huy chương tại các giải đấu quốc gia, gồm: 8 Huy chương Vàng, 11 Huy chương Bạc và 18 Huy chương Đồng, khẳng định vị thế vượt trội của Hưng Yên trong môn thể thao này.[41]
Tổng kết năm 2024, các vận động viên của tỉnh đã tham gia thi đấu 39 giải thể thao quốc gia, giành tổng số 140 huy chương các loại, trong đó có: 22 Huy chương Vàng, 35 Huy chương Bạc, 83 Huy chương Ðồng, vượt chỉ tiêu và kế hoạch đề ra.[41] Những thành tích này không chỉ khẳng định tiềm năng phát triển thể thao thành tích cao của Hưng Yên mà còn góp phần nâng cao vị thế của tỉnh trên bản đồ thể thao quốc gia và khu vực.
Tuy đã có những bước đầu tư, sự quan tâm, nâng cấp và cải thiện, song lĩnh vực TDTT của tỉnh vẫn gặp phải một số khó khăn và hạn chế. Hệ thống cơ sở hạ tầng thể dục thể thao tại địa phương vẫn chưa đáp ứng đủ điều kiện tập luyện, thi đấu và tổ chức các giải đấu lớn. Kinh phí dành cho lĩnh vực này còn hạn chế, dẫn đến chế độ tập luyện, dinh dưỡng cho huấn luyện viên và vận động viên chưa được đảm bảo, trong khi chính sách đãi ngộ chưa thực sự hấp dẫn, không tạo được động lực thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao trong thể thao thành tích cao. Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào huấn luyện và thi đấu thể thao còn chậm, chưa triển khai đồng bộ và sâu rộng. Những yếu tố này đang là rào cản lớn đối với quá trình phát triển thể dục thể thao của tỉnh, đặc biệt là trong bối cảnh cần nâng cao chất lượng chuyên môn và hội nhập với các địa phương khác trong khu vực và cả nước.
Giao thông
sửaMạng lưới giao thông của tỉnh Hưng Yên hiện nay đang ngày càng được cải thiện và mở rộng. Điều này đã giúp Hưng Yên thu hút đầu tư, phát triển khu công nghiệp, đô thị mới, lưu thông hàng hóa nhanh chóng và thúc đẩy liên kết vùng.
Đường bộ
sửaHưng Yên sở hữu hệ thống giao thông đường bộ khá phát triển và đang tiếp tục được mở rộng, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối với thủ đô Hà Nội, các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khu vực đồng bằng sông Hồng. Các tuyến đường trọng điểm đi qua địa bàn tỉnh gồm:
- Quốc lộ 5: Tuyến huyết mạch kết nối Hà Nội - Hải Phòng, chạy qua thị xã Mỹ Hào.
- Quốc lộ 10: Kết nối các tỉnh thành khu vực ven biển Bắc Bộ đi qua Quỳnh Phụ, Đông Hưng, TP Thái Bình, Vũ Thư.
- Quốc lộ 37: Từ Diêm Điền (Thái Thụy) kết nối với nhiều tỉnh thành đồng bằng, trung du và miền núi Bắc Bộ.
- Quốc lộ 37B: Chạy qua các huyện Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến Xương.
- Quốc lộ 38: Kết nối Bắc Ninh - Hưng Yên - Hà Nam, đi qua các huyện thị Mỹ Hào, Ân Thi, Kim Động, TP Hưng Yên phục vụ phát triển công nghiệp và dân sinh.
- Quốc lộ 38B: Chạy qua TP Hưng Yên, Tiên Lữ, Phù Cừ.
- Quốc lộ 39: Chạy xuyên tỉnh từ Mỹ Hào - Yên Mỹ - Khoái Châu - Kim Động - TP Hưng Yên - Hưng Hà - Đông Hưng - TP Thái Bình - Thái Thụy, kết nối nội vùng và thông thương với Thái Bình.
- Các tuyến đường cao tốc: Tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (CT04), Yên Mỹ - Chợ Bến (CT14), Ninh Bình - Hải Phòng (CT08).
- Đường Vành đai 3.5 và Vành đai 4 vùng Thủ đô (đang triển khai): Dự án trọng điểm quốc gia đi qua huyện Văn Giang và Khoái Châu, khi hoàn thành sẽ tạo trục liên kết đô thị - công nghiệp - logistics giữa Hưng Yên và các tỉnh vệ tinh của Hà Nội.
- Hệ thống đường tỉnh: ĐT.376, ĐT.377, ĐT.379, ĐT.451, ĐT452, ĐT.453... hiện nay đã được đầu tư cải tạo, mở rộng, giúp tăng năng lực vận chuyển hàng hóa, kết nối đến các khu công nghiệp như Thăng Long II, Phố Nối A, Phố Nối B...
- Hệ thống xe buýt công cộng: Một số tuyến xe buýt kết nối với thành phố Hà Nội có điểm đầu cuối hoặc có lộ trình đi qua như các tuyến 40, 47A, 47B, 69, 202, 205, 207, 208...
Hưng Yên nằm giữa các hệ thống sông lớn, vì vậy các cây cầu đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giao thông liên tỉnh và nội tỉnh. Các cây cầu quan trọng trong mạng lưới giao thông của tỉnh Hưng Yên bao gồm:
- Cầu Yên Lệnh: Nối thành phố Hưng Yên với huyện Duy Tiên (Hà Nam), trên Quốc lộ 38. Đây là cây cầu quan trọng trong trục giao thông Bắc Nam.
- Cầu Hưng Hà: Nối huyện Phù Cừ (Hưng Yên) với huyện Hưng Hà (Thái Bình). Cầu có quy mô lớn, tạo điều kiện phát triển kinh tế khu vực phía Đông tỉnh.
- Cầu Tân Đệ
- Cầu Sông Hóa
- Cầu Nghìn
- Cầu Thái Hà
- Cầu Triều Dương:
- Cầu Bắc Hưng Hải:
- Cầu Ngọc Hồi (đang triển khai):
- Cầu Mễ Sở (đang triển khai):
- Cầu Phú Xuyên (chưa triển khai):
Đường sắt
sửaTrên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng đi qua huyện Văn Lâm với ga Lạc Đạo và ga Tuấn Lương nhưng không đón trả khách. Mặc dù chưa phát triển mạnh về vận tải hành khách, tuyến đường sắt này vẫn đóng vai trò nhất định trong vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là hàng công nghiệp, vật liệu xây dựng.
Đường thủy
sửaVới vị trí nằm giữa hệ thống sông Hồng, sông Luộc, sông Bắc Hưng Hải... Hưng Yên có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy nội địa.
- Sông Hồng: Là tuyến vận tải thủy quốc gia, chạy dọc phía Tây tỉnh, thuận tiện cho việc giao thương hàng hóa với Hà Nội và các tỉnh hạ lưu.
- Sông Trà Lý, Sông Luộc, sông Đuống, sông Bắc Hưng Hải, sông Diêm Hộ, sông Hóa: Là các tuyến vận tải thủy nội địa quan trọng, phục vụ vận chuyển nông sản, vật liệu xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp ven sông.
Hình ảnh
sửa-
Công viên Sóng VinWonders (Vinhomes Ocean Park 2)
-
Khu Công nghiệp Phố Nối A
-
Chùa Nôm
-
Chùa Phúc Lâm
-
Đài tưởng niệm liệt sĩ thành phố Hưng Yên
Chú thích
sửa- ^ a b c "Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh". Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. ngày 12 tháng 6 năm 2025. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2025.
- ^ Tổng cục Thống kê
- ^ "Danh sách dự kiến tên gọi của 34 tỉnh, thành phố và trung tâm chính trị - hành chính". vtv.vn. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2025.
- ^ Đào Duy Anh. Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời. Huế: Thuận Hóa, 1995.
- ^ Nghị định số 625-TTg năm 1955 của Thủ tướng Chính phủ.
- ^ Nghị định 129-TTg năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ.
- ^ Nghị quyết của Quốc hội khóa II ngày 20-4-1961.
- ^ Nghị quyết của Quốc hội khóa III ngày 27-1-1968.
- ^ Quyết định số 93-CP năm 1969 của Hội đồng Chính phủ.
- ^ Quyết định 58-CP năm 1977 về việc hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh Hải Hưng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Quyết định 70-CP năm 1979 về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Hải Hưng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Nghị định 05-CP năm 1996 về việc chia các huyện Tứ Lộc, Ninh Thanh, Kim Thi thuộc tỉnh Hải Hưng
- ^ Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị định 17-CP năm 1997 về việc chia huyện Phù Tiên, thành lập một số phường, thị trấn thuộc thị xã Hưng Yên và huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên
- ^ Nghị định 60/1999/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính và chia các huyện Mỹ Văn và Châu Giang, tỉnh Hưng Yên
- ^ Quyết định số 02-HĐBT năm 1982 của Hội đồng Bộ trưởng.
- ^ Nghị định 04/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng Yên
- ^ "Nghị quyết 656/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập thị xã Mỹ Hào thuộc tỉnh Hưng Yên và 07 phường thuộc Mỹ Hào".
- ^ "Vietnam Building Code Natural Physical & Climatic Data for Construction" (PDF). Vietnam Institute for Building Science and Technology. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
- ^ Hung Yen attracts 1.4 billion USD in foreign direct investment in 2024
- ^ Hưng Yên phát triển khu công nghiệp, thu hút đầu tư
- ^ a b Đào Ban (ngày 1 tháng 1 năm 2025). "Sản xuất nông nghiệp vượt khó". Báo Hưng Yên.
- ^ a b c Đào Ban (ngày 26 tháng 12 năm 2024). "Thu hút đầu tư lĩnh vực sản xuất, chế biến nông sản". Báo Hưng Yên.
- ^ a b Phạm Hà (ngày 1 tháng 6 năm 2023). "Nông nghiệp Hưng Yên hướng tới sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, hiệu quả và an toàn". Báo Nhân Dân.
- ^ Hưng Yên: Phát triển thương mại – dịch vụ theo quy hoạch
- ^ Hưng Yên: Nâng hạng chỉ số thương mại điện tử
- ^ "Tình hình kinh tế, xã hội Hưng Yên năm 2018" (PDF). Cục Thống kê tỉnh Hưng Yên. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2019.[liên kết hỏng]
- ^ "tình hình phát triển kinh tế xã hội năm 2022" (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2022.
- ^ Hưng Yên: Năm 2024, thu ngân sách Nhà nước đạt trên 40.000 tỷ đồng
- ^ "niên giám thống kê Việt Nam 2021". Tổng Cục Thống Kê. ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ Lịch sử tỉnh Hưng Yên - mảnh đất phù sa màu mỡ, đậm truyền thống văn hóa
- ^ Hung Yen population (old)
- ^ "Công văn 2896 BNV CQĐP 2025 cung cấp thông tin danh mục dự kiến đơn vị hành chính cấp xã" (PDF). ngày 24 tháng 10 năm 2024.
- ^ Căn cứ theo Đề án số 360/ĐA-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 5 năm 2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hưng Yên (mới) năm 2025
- ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
- ^ "Triển khai nhiệm vụ năm học 2024 - 2025". Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2025.
- ^ a b Phạm Hà (ngày 24 tháng 9 năm 2024). "Hưng Yên tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân". Báo Nhân Dân.
- ^ Phạm Thu (ngày 15 tháng 12 năm 2023). "16 Di tích trong khu Di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến". Thành ủy Hưng Yên.
- ^ Lê Hiếu (ngày 27 tháng 11 năm 2024). "Hưng Yên có thêm 1 di tích được xếp hạng quốc gia đặc biệt". Báo Hưng Yên.
- ^ PV (ngày 6 tháng 5 năm 2021). "Di tích quốc gia đặc biệt đền An Xá". Báo Hưng Yên.
- ^ a b c Đông Vi (ngày 29 tháng 1 năm 2025). "Dấu ấn thể thao Hưng Yên năm 2024". Báo Hưng Yên.
- ^ "Vingroup sắp khánh thành trung tâm đào tạo bóng đá trẻ tại Hưng Yên". VnExpress. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2018.
- ^ "PVF là một trong ba học viện đào tạo bóng đá tốt nhất Châu Á". Dân trí. ngày 24 tháng 9 năm 2020.
- ^ Nguyễn Thanh Hằng (ngày 11 tháng 4 năm 2022). "Lễ khai mạc Đại hội Thể dục - Thể thao tỉnh Hưng Yên". Đảng bộ tỉnh Hưng Yên.