Trần Đăng Khoa (bộ trưởng)
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Trần Đăng Khoa (1907-1989) là kỹ sư công chính, nhà chính trị Việt Nam, Bộ trưởng Giao thông Công chính của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi, Phó Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam.
Trần Đăng Khoa | |
---|---|
![]() | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 15 tháng 7 năm 1960 – 24 tháng 6 năm 1981 |
Chủ tịch | Trường Chinh |
Tiền nhiệm | Tôn Đức Thắng |
Kế nhiệm | Xuân Thủy |
Nhiệm kỳ | tháng 4 năm 1958 – 1960 |
Tiền nhiệm | không có (thành lập) |
Kế nhiệm | Hà Kế Tấn |
Thứ trưởng | Hà Kế Tấn |
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc | |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 9 năm 1955 – tháng 4 năm 1958 |
Tiền nhiệm | không có (thành lập) |
Kế nhiệm | không có (chia Bộ) |
Thứ trưởng | Bùi Quang Tạo |
Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính | |
Nhiệm kỳ | 2 tháng 3 năm 1946 – 20 tháng 9 năm 1955 9 năm, 202 ngày |
Tiền nhiệm | Đào Trọng Kim |
Kế nhiệm | Nguyễn Văn Trân (Bộ Giao thông và Bưu điện) |
Thứ trưởng | Đặng Phúc Thông (1946-1951,mất) |
Thông tin chung | |
Sinh | huyện Từ Liêm, Hà Nội, Liên bang Đông Dương | 4 tháng 5, 1907
Mất | 1989 (81–82 tuổi) |
Đảng chính trị | Đảng Dân chủ Việt Nam |
Quê quánSửa đổi
Ông sinh ngày 4 tháng 5 năm 1907, quê ở huyện Từ Liêm tỉnh Hà Nội,Liên bang Đông Dương thuộc Pháp nay là Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, [1].
Quá trình công tácSửa đổi
Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công chính Hà nội (1925 – 1928) ông tiếp tục học hàm thụ Trường Kỹ sư Eyrolles, Paris và thi đậu tham sự bậc trên (1928), sau đó (1932) thi đậu kỹ sư công chính. Trước năm 1945, ông đã tốt nghiệp Đại học ngành công chính và từng phụ trách ngành này ở nhiều tỉnh miền Trung Việt Nam.[2]
Năm 1945, ông gia nhập Đảng Dân chủ Việt Nam, từng giữ chức Phó Tổng thư ký của Đảng[3].
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng: Giám đốc Công chính Trung bộ,, Bộ trưởng Bộ Giao thông - Công chính năm 1946[4], Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc năm 1955, Bộ trưởng đầu tiên Bộ Thủy lợi năm 1958[2].
Tháng 4 năm 1960 Ông được bầu vào Quốc hội khóa II. Cũng trong thời gian này Ông giữ chức Giám đốc Học viện Thủy lợi, rồi Giám đốc Viện Nghiên cứu Khoa học Thủy lợi.
Ông là người tham gia thiết kế đập Bái Thượng (thuộc hệ thống thủy lợi Sông Chu, tỉnh Thanh hóa) và là bạn của Chủ tịch Xuphanuvông (Lào), cũng vốn là kỹ sư thủy lợi – công chính, người tham gia thiết kế đập Đô Lương (thuộc hệ thống Bắc Nghệ An)
Ông là Quốc hội liên tục từ khoá I đến khóa VII, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV, V, VI, là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô trong nhiều năm.
Tháng 4 năm 1981 ông được Quốc hội khóa VII bầu làm Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội và tiếp tục chức vụ Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.
Ông đã được tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương của Nhà nước Việt Nam.
Tên ông đã được đặt cho một con đường tại phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà.
Chú thíchSửa đổi
- ^ Đường Trần Đăng Khoa.[liên kết hỏng] Website thuathienhue.gov.vn. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2012.
- ^ a b “Ông Trần Đăng Khoa, vị Bộ trưởng Thủy lợi đầu tiên” (Thông cáo báo chí). Nguyễn Xuân Tiệp - Hội đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam. 29/01/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ “Nghị quyết số 1258 NQ/TVQH” (Thông cáo báo chí). Quốc hội Việt Nam khóa VI. 18/12/1980. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp)[liên kết hỏng] Văn bản trên wikisource - ^ “Bộ Giao thông Công chính”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.