Tôn Đức Thắng
Tôn Đức Thắng (20 tháng 8 năm 1888 – 30 tháng 3 năm 1980) là một nhà cách mạng, chính khách của Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước cuối cùng của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1976 đến năm 1980, ông là Chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đến khi qua đời. Trước đó, ông là Phó Chủ tịch nước (1960–1969), Quyền Chủ tịch nước (2 tháng 9 – 22 tháng 9 năm 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội (1955–1960) – tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ.
Tôn Đức Thắng | |
---|---|
Tôn Đức Thắng năm 1960 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 2 tháng 7 năm 1976 – 30 tháng 3 năm 1980 3 năm, 272 ngày |
Tiền nhiệm | bản thân (với tư cách Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) |
Kế nhiệm | Trường Chinh |
Phó Chủ tịch nước |
|
Nhiệm kỳ | 23 tháng 9 năm 1969 – 30 tháng 3 năm 1980 10 năm, 189 ngày |
Tiền nhiệm | Hồ Chí Minh |
Kế nhiệm | Trường Chinh |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 9 năm 1969 – 2 tháng 7 năm 1976 6 năm, 283 ngày |
Tiền nhiệm | Hồ Chí Minh |
Kế nhiệm | bản thân (với tư cách Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) |
Phó Chủ tịch | Nguyễn Lương Bằng |
Nhiệm kỳ | 2 tháng 9 năm 1969 – 22 tháng 9 năm 1969 20 ngày |
Tiền nhiệm | Hồ Chí Minh |
Kế nhiệm | bản thân (với tư cách Chủ tịch nước) |
Nhiệm kỳ | 15 tháng 7 năm 1960 – 23 tháng 9 năm 1969 9 năm, 70 ngày |
Tiền nhiệm | Nguyễn Hải Thần |
Kế nhiệm | Nguyễn Lương Bằng |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 9 năm 1955 – 6 tháng 7 năm 1960 4 năm, 290 ngày |
Tiền nhiệm | Bùi Bằng Đoàn |
Kế nhiệm | Trường Chinh |
Phó Trưởng ban | Tôn Quang Phiệt |
Nhiệm kỳ | 10 tháng 9 năm 1955 – 31 tháng 1 năm 1977 21 năm, 143 ngày |
Tiền nhiệm | bản thân (với tư cách Chủ tịch Mặt trận Liên Việt) |
Kế nhiệm | Hoàng Quốc Việt |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 3 năm 1951 – 10 tháng 9 năm 1955 4 năm, 191 ngày |
Tiền nhiệm | đầu tiên |
Kế nhiệm | bản thân (với tư cách Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc) |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 8 năm 1948 – 20 tháng 9 năm 1955 7 năm, 50 ngày |
Trưởng ban | Bùi Bằng Đoàn |
Nhiệm kỳ | 4 tháng 8 năm 1947 – 18 tháng 12 năm 1949 2 năm, 136 ngày |
Tiền nhiệm | Bùi Bằng Đoàn |
Kế nhiệm | Hồ Tùng Mậu |
Nhiệm kỳ | 8 tháng 11 năm 1946 – 20 tháng 9 năm 1955 8 năm, 316 ngày |
Trưởng ban | Bùi Bằng Đoàn |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 5 năm 1947 – 1 tháng 8 năm 1947 92 ngày |
Tiền nhiệm | Huỳnh Thúc Kháng Phan Kế Toại (quyền) |
Kế nhiệm | Phan Kế Toại |
Ủy viên Trung ương Đảng | |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 5 năm 1947 – 30 tháng 3 năm 1980 32 năm, 334 ngày |
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II, III, IV, V, VI | |
Nhiệm kỳ | 6 tháng 1 năm 1946 – 30 tháng 3 năm 1980 34 năm, 84 ngày |
Chủ tịch Quốc hội | Nguyễn Văn Tố Bùi Bằng Đoàn Tôn Đức Thắng Trường Chinh |
Vị trí | Sài Gòn – Chợ Lớn (1946–1971) Hà Nội (1971–1980) |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 20 tháng 8, 1888 Long Xuyên, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 30 tháng 3, 1980 Hà Nội, Việt Nam | (91 tuổi)
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Mai Dịch |
Đảng chính trị |
|
Vợ | Đoàn Thị Giàu |
Cha | Tôn Văn Đề |
Mẹ | Nguyễn Thị Dị |
Con cái | Tôn Thị Hạnh Tôn Thị Nghiêm Tôn Đức Liêm Tôn Thị Ngọc Quang[a] Tôn Thị Tuyết Dung[b] |
Tặng thưởng | Huân chương Sao Vàng (1958) Huân chương Lenin (1967) Huân chương Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lenin (1978) Huân chương Sukhbaatar (1978) Huân chương Đại đoàn kết dân tộc (2005) |
Sau khi kế nhiệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông trở thành Chủ tịch nước thứ 2 và cũng là Chủ tịch nước cuối cùng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ông cũng là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng – huân chương cao quý nhất Việt Nam.
Thân thế
sửaTôn Đức Thắng còn có bí danh Thoại Sơn, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888 tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Nơi thường trú tại quận Nam Từ Liêm, thủ đô Hà Nội. Là con đầu của ông Tôn Văn Đề, và bà Nguyễn Thị Dị. Gia đình đông con, theo thông lệ miền Nam, ông còn được gọi là Hai Thắng.
Gia đình ông thuộc hạng nông dân khá giả nên từ nhỏ ông đã được học hành đàng hoàng. Năm 1906, sau khi tốt nghiệp Sơ cấp tiểu học Đông Dương (Certificat d'Etudes Primaires Complémentaires Indochinoises - CEPCI) tại Long Xuyên, ông rời quê lên Sài Gòn học nghề thợ máy tại Trường Cơ khí Á Châu (L'école des Mécaniciens Asiatiques), dân gian thường gọi là Trường Bá Nghệ. Tốt nghiệp hạng ưu, ông được nhận vào làm công nhân ở Nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn.
Hoạt động chính trị
sửaThời trẻ
sửaNăm 1912, ông tham gia tổ chức công nhân bãi công đòi quyền lợi, vì vậy bị sa thải. Năm 1913, ông sang Pháp làm công nhân ở Toulon (Pháp). Năm 1914, ông được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn vị Hải quân Pháp, tham gia phản chiến chống lại cuộc can thiệp của Đế quốc Pháp vào nước Nga Xô Viết tại Hắc Hải (ngày 20 tháng 4 năm 1919), treo cờ đỏ trên một thiết giáp hạm của Pháp tại đây để ủng hộ Cách mạng Nga.[1]
Năm 1920, ông về nước, xây dựng cơ sở công hội (tiền thân của Công đoàn Việt Nam), vận động công nhân đấu tranh, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1925, quyết tâm trì hoãn việc sửa chữa chiếc Đô đốc hạm Jules Michelet trong đoàn tàu chiến Pháp đang trên đường sang Trung Quốc.[2]
Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, là Ủy viên Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ, và được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn (1928), cảnh sát thực dân Pháp gán cho ông vào tội chủ mưu giết người trong vụ ám sát một người hợp tác với chính quyền thuộc địa Nam Kỳ tên là Phát do các đồng chí của ông thực hiện, đường Barbier (nay là đường Thạch Thị Thanh). Nhờ có một đồng chí trẻ tự nhận là chủ mưu, cùng với sự vận động của một số nhân sĩ trí thức người Việt như bà Trần Thị Cừu, Đốc học Nguyễn Văn Bá, luật sư Trịnh Đình Thảo, nên ông chỉ bị chính quyền thuộc địa tuyên án chung thân khổ sai, đày ra Côn Đảo.[3] Có tổng cộng hơn 60 người bị bắt trong vụ án này, theo hồi ký Passion, Betrayal, and Revolution in Colonial Saigon: The Memoirs of Bao Luong, của bà Nguyễn Trung Nguyệt (Bảo Lương).
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Côn Đảo.
Theo ông Christoph Giebel,[4] giáo sư khoa Sử tại Đại học Washington, Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách nghiên cứu về ông Tôn Đức Thắng ("Tiền bối tưởng tượng của những nhà Cộng sản Việt Nam: Tôn Đức Thắng và chính trị của lịch sử và ký ức" - Imagined Ancestries of Vietnamese Communism: Ton Duc Thang and the Politics of History and Memory[5]) cho rằng "không có bằng chứng cho thấy ngay từ thời rất trẻ, thậm chí trước cả thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông Tôn đã hoạt động rất tích cực trong các hoạt động cách mạng tại Sài Gòn", ông Tôn không bị bắt lính sang Pháp năm 1914 mà được tuyển mộ. Trong sự kiện ở Hắc Hải năm 1919, Giebel "tin rằng ông Tôn Đức Thắng không có mặt trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh biến ở Hắc Hải", bộ máy tuyên truyền đã dùng hình ảnh ông Tôn cắm cờ trên một trong những con tàu ở Hắc Hải để kết nối cách mạng Việt Nam với Cách mạng tháng Mười Nga. Trong cuộc đình công ở Ba Son năm 1925, theo Giebel không phải là một cuộc đình công chính trị với mục đích chống đế quốc, và cũng không "giam chân" được chiến hạm Pháp trên đường đến Trung Quốc.[6]
Sau Cách mạng tháng 8
sửaSau Cách mạng tháng Tám 1945, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến, giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1945). Ông là Đại biểu Quốc hội liên tục các khóa I-VI.
Năm 1946: Phó ban Thường trực Quốc hội (1946-1955). Đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (1946-1951).
Năm 1947: Thanh tra đặc biệt toàn quốc (tháng 8 năm 1947), quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ (tháng 5 năm 1947-tháng 11 năm 1947).
Năm 1948: Quyền Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (1948-1955), Trưởng Ban Vận động thi đua ái quốc Trung ương.
Năm 1950: Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô.
Năm 1951: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (1951-1955) trong cuộc nổi dậy chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1954. Tuy nhiên, tổ chức này đã bị giải thể sau Hiệp định Genève năm 1954 trao cho Việt Minh duy nhất kiểm soát Bắc Việt Nam. Sau đó ông tiếp quản một tổ chức khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một nhóm dân tộc chủ nghĩa thân Cộng sản. Tôn Đức Thắng đã lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc trong cuộc chinh phục để thu hút những người ủng hộ từ miền Nam Việt Nam. Kết quả là ông đã nhận được Giải thưởng Hòa bình của Stalin vào năm 1955.
Năm 1955: Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (1955-1960), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955-1977), Ủy viên Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới, Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam.
Từ năm 1960-1969: Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong giai đoạn này, công việc chính của ông là cố gắng giành lại miền Nam Việt Nam cũng giúp đưa ông trở thành Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới thời chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1960.
Năm 1967, khi ông vẫn còn là phó chủ tịch, ông đã giành được Giải Hòa bình Lênin, một giải thưởng hàng năm tương tự như Giải Nobel Hòa bình, nhưng được trao bởi Liên Xô.
Chủ tịch nước (1969-1980)
sửaSau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, Tôn Đức Thắng kế nhiệm Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước. Tuy nhiên, hầu hết quyền lực thực sự được trao cho lãnh đạo Đảng Cộng sản Lê Duẩn.
Từ năm 1976-1980: Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977-1980).
Về mặt Đảng, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1947, và khóa II đến khóa IV, nhưng không tham gia Bộ Chính trị.
Trong các văn kiện của nhà nước Việt Nam, báo chí của Nhà nước, giai đoạn ông làm Chủ tịch nước, tên ông bao giờ cũng được đặt lên đầu, trên cả Tổng bí thư Lê Duẩn và các lãnh đạo khác.
Gia đình
sửaÔng kết hôn với bà Đoàn Thị Giàu (sinh năm 1898 tại ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; mất ngày 25 tháng 5 năm 1974) vào năm 1921 ở nhà ông bà ngoại của bà Giàu ở xã Vĩnh Kim, Tiền Giang. Đây là cuộc hôn nhân có ý nghĩa đền ơn trả nghĩa vì ông đã giúp an táng ông Ba Sứ, anh trai bà Giàu, một người bạn của ông ở Pháp.[7] Bà Đoàn Thị Giàu là cô giáo trường làng.[8]
Hai người sinh được hai con gái, con gái đầu là Tôn Thị Hạnh, sinh năm 1924[9] và con gái thứ hai là Tôn Thị Nghiêm, sinh năm 1928. Đầu năm 1929, hai ông bà sinh con trai thứ ba tên là Tôn Đức Liêm, nhưng Liêm đã qua đời lúc 3 tuổi vì bị bệnh nặng.[7][8][10]
Bà Tôn Thị Hạnh kết hôn với ông Dương Văn Phúc, nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, vào năm 1950.[7][9] Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Tôn Thị Hạnh và Tôn Thị Nghiêm theo cha lên chiến khu Việt Bắc. Tôn Thị Hạnh làm văn thư lưu trữ còn Tôn Thị Nghiêm làm điện báo viên ở Văn phòng Trung ương.[7]
Bà Tôn Thị Nghiêm kết hôn với ông Tưởng Bích Trúc, Phó Tiến sĩ, Chủ nhiệm khoa Đại học Y Hà Nội. Vợ chồng bà Tôn Thị Nghiêm đã mất vào thập niên 1980, ít năm sau khi Tôn Đức Thắng qua đời.[7] Hai người có ba con gái (Tưởng Bích Vân, Tưởng Bích Hà và Tưởng Hoài Nam).[11]
Năm 1946, Tôn Đức Thắng nhận nuôi hai người con gái nuôi là Tôn Thị Ngọc Quang, sinh năm 1927 (không phải họ Tôn, sau 1954 đổi sang họ Tôn) và Tôn Thị Tuyết Dung, sinh năm 1933 [12][13]. Bà Tôn Thị Ngọc Quang làm y tá ở một Viện quân y ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, và kết hôn với Nguyễn Thanh Phúc, quê Quảng Trị, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào. Hai người có một con gái (Nguyễn Thanh Thanh) và hai con trai (Nguyễn Thanh Bình và Nguyễn Thanh Phong).[10]
Qua đời
sửaChủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời lúc 6 giờ 35 phút ngày 30 tháng 3 năm 1980. Hưởng thọ 92 tuổi. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức lễ quốc tang ông với nghi thức trọng thể nhất trong 5 ngày từ ngày 1 đến ngày 5-4-1980. Ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.[14]
Khen thưởng và vinh danh
sửaTưởng niệm, giải thưởng
sửa- Huân chương Sao Vàng (19/08/1958)
- Huân chương Đại đoàn kết dân tộc (truy tặng 15/11/2005)
- Giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lenin của Liên bang Xô viết (12/1955)[15]
- Huân chương Lenin (11/1967)
- Huân chương Cách mạng Tháng Mười (1978)[16]
- Huân chương Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lenin (1978)
- Huân chương Sukhbaatarcủa Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ (08/1978)
- Huy chương Hữu nghị kỷ niệm 20 năm Cách mạng Cuba (1953 – 1973)
Ông được Hồ Chí Minh ca ngợi là "gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Nhân dịp tròn 70 tuổi, ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và là người đầu tiên được tặng Huân chương này (1958).
Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lenin do Chính phủ Liên bang Xô viết trao tặng (1955).[17][18]
Trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của ông, đoàn Chủ tịch Quốc hội Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Sukhbaatar - huân chương cao quý nhất của Mông Cổ.[19]
Tên ông được đặt cho một đường phố ở thành phố Odessa, Ukraina vì liên quan đến sự kiện phản chiến ở Hắc Hải,[20] và cũng là tên của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều con đường ở Việt Nam cũng được đặt tên theo tên ông.
Tên gọi Tôn Đức Thắng cũng được đặt cho một giải thưởng cấp thành phố của Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh những công nhân, kỹ sư có thành tích đặc biệt trong lao động và sản xuất.
Phim Tổ quốc tiếng gà trưa- biên kịch Nguyễn Quang Sáng, đạo diễn Nguyễn Huy Thành.
Hiện nay, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng ở An Giang cũng đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt.
Đường Tôn Đức Thắng tại Việt Nam
sửaTên ông đặt cho đường phố ở Hà Nội (nối Chu Văn An với Nguyễn Lương Bằng), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Đinh Tiên Hoàng đến đoạn cắt Võ Văn Kiệt - Hàm Nghi), Hải Phòng (từ ngã tư Tô Hiệu và Trần Nguyên Hãn đến đường Hùng Vương), Đà Nẵng (nối Nguyễn Lương Bằng với Điện Biên Phủ), Đồng Hới (từ ngã tư Trần Hưng Đạo, Xuân Diệu và Hoàng Diệu đến đường Hà Huy Tập), Thành Phố Pleiku (Nối Ngô Quyền Và Phạm Hùng Với Lê Đại Hành Và QL14).
Tại thành phố Long Xuyên, tên ông được đặt cho con đường nối từ Tượng đài Bông lúa đến Trần Hưng Đạo.
Bảo tàng
sửaVào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 20/8/1988), Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập "Nhà trưng bày cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng" (tại số 5 đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh), đến năm 1990, được đổi tên thành Bảo tàng Tôn Đức Thắng.
Bảo tàng Tôn Đức Thắng là nơi lưu giữ nhiều hình ảnh, tư liệu về Chủ tịch Tôn Đức Thắng, phục vụ nhu cầu thăm viếng và tưởng nhớ của người dân các tỉnh, thành phía Nam[21]. Một số tỉnh, thành gần đây cũng có xây dựng các phòng trưng bày về Tôn Đức Thắng, nhưng ở quy mô nhỏ hơn.
Hoạt động Đại biểu Quốc hội
sửaNgày đắc cử | Quốc hội khóa | Nơi ứng cử/Đoàn Đại biểu | Đảng phái | Tỉ lệ | Nghề nghiệp, chức vụ | Tuổi thắng cử | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|---|
6 tháng 1 năm 1946 | Khóa I | Sài Gòn - Chợ Lớn | Đảng Cộng sản Việt Nam | Không có dữ liệu | 58 tuổi | [22] | |
8 tháng 5 năm 1960 | Khóa II | Sài Gòn - Chợ Lớn | Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch danh dự Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam | 72 tuổi | [23] | ||
26 tháng 4 năm 1964 | Khóa III | Sài Gòn - Chợ Lớn | Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa | 76 tuổi | [24] | ||
11 tháng 4 năm 1971 | Khóa IV | Thành phố Hà Nội | Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa | 83 tuổi | [25] | ||
6 tháng 4 năm 1975 | Khóa V | Thành phố Hà Nội | Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam | 87 tuổi | [26] | ||
25 tháng 4 năm 1976 | Khóa VI | Thành phố Hà Nội | Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. | 88 tuổi | Từ trần ngày 30 tháng 3 năm 1980[27] |
Ảnh
sửa-
Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong khu lưu niệm.
-
Tượng Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong đền thờ.
-
Ngôi nhà thời niên thiếu trong khu lưu niệm.
-
Cầu Tôn Đức Thắng ở thành phố Long Xuyên.
Xem thêm
sửaChú thích
sửaGhi chú
sửaTham khảo
sửa- ^ “Chủ tịch Tôn Đức Thắng trọn đời nêu gương sáng”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2013.
- ^ Bác Tôn - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, người bạn chiến đấu thân thiết của Bác Hồ Lưu trữ 2021-01-20 tại Wayback Machine, bài viết của Nguyễn Minh Triết
- ^ “Người lãnh án tử hình thay bác Tôn, Trang thông tin điện tử báo Pháp luật TP.HCM”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013.
- ^ Giebel Lưu trữ 2009-04-20 tại Wayback Machine là một giáo sư tại Đại học Washington, chuyên gia về Đông Nam Á/Việt Nam Lưu trữ 2010-06-22 tại Wayback Machine. Chuyên gia về Tôn Đức Thắng vì Luận án tiến sĩ của ông tại Đại học Cornell là về Tôn Đức Thắng, thắng giải "Cornell Southeast Asia Program Lauriston Sharp" năm 1996 và ông đã xuất bản một số bài viết, nghiên cứu về nhân vật này. Quyển Imagined Ancestries of Vietnamese Communism dựa vào luận án tiến sĩ của ông, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Washington. Quyển này được review trong một số tạp chí chuyên ngành như Journal of Cold War Studies. Quyển này cũng được Sophie Quinn-Judge dùng làm nguồn tham khảo trong quyển tiểu sử Hồ Chí Minh và khoảng 50 công trình hàn lâm khác
- ^ (tiếng Anh) “Tiền bối được tô vẽ của những nhà Cộng sản Việt Nam: Tôn Đức Thắng với lịch sử và ký ức bị chính trị hoá”. Tạp chí lịch sử Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Trường hợp ông Tôn Đức Thắng”. BBC Việt ngữ. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2003.
- ^ a b c d e “Đòn gánh lưng cong”. Báo An ninh Thế giới. 24 tháng 3 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ a b “Người vợ giản dị của Chủ tịch Tôn Đức Thắng”. Báo điện tử Phụ nữ Việt Nam. 16 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ a b D.Thu (19 tháng 10 năm 2011). “Lãnh đạo CĐ thăm hỏi con gái Bác Tôn”. Báo Người lao động. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ a b Dương Đức Quảng (14 tháng 4 năm 2008). “Tấm vải và lá thư của Bác Tôn”. Báo An ninh Thế giới. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ Dương Đức Quảng (Nguyên Vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí - VPCP) (18 tháng 8 năm 2015). “Người lái xe của Bác Hồ và Bác Tôn”. Báo điện tử Văn phòng Chính phủ. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ “Trưng bày "Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng"”. Bảo tàng Tôn Đức Thắng. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ Linh Đoan (23 tháng 10 năm 2010). “Triển lãm "Mẫu phác thảo tượng Bác Hồ - Bác Tôn"”. Báo Tuổi trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ Tôn Đức Thắng tiểu sử. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
- ^ “Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng”.
- ^ «Ведомости Верховного Совета СССР», 1978 год, № 34 (1952), ст. 538
- ^ Bài viết về Tôn Đức Thắng trên bách khoa toàn thư Britannica
- ^ О присуждении международных Сталинских премий "За укрепление мира между народами Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine" за 1955 год. Pravda. Dec 21, 1955, page 1
- ^ “Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang)”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2017. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ Đặt lại tên Tôn Đức Thắng cho một phố ở Odessa Lưu trữ 2013-12-24 tại Wayback Machine, Báo Lao động số 97, ngày 06.04.2004
- ^ Nguyễn, Thành Luân (báo Đại Đoàn Kết). “Kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng”.
- ^ “Thông tin Đại biểu Quốc hội”. THÔNG TIN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Thông tin Đại biểu Quốc hội”. THÔNG TIN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Thông tin Đại biểu Quốc hội”. THÔNG TIN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Thông tin Đại biểu Quốc hội”. THÔNG TIN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Thông tin Đại biểu Quốc hội”. THÔNG TIN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Thông tin Đại biểu Quốc hội”. THÔNG TIN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
Liên kết ngoài
sửa- Tôn Đức Thắng tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Trường hợp ông Tôn Đức Thắng - đài BBC phỏng vấn giáo sư Christoph Giebel
- Những ngày tôi làm thầy thuốc riêng cho Bác Tôn - Trần Hữu Nghiệp
- Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng Lưu trữ 2009-10-19 tại Wayback Machine
- Bác Tôn với Cách mạng tháng Mười Nga Lưu trữ 2008-06-21 tại Wayback Machine
- Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Bác Tôn Lưu trữ 2009-04-18 tại Wayback Machine