U-57 (tàu ngầm Đức) (1938)

U-57 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-57 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được mười một chuyến tuần tra tại Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh, đánh chìm 11 tàu buôn cùng một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 56.293 tấn.[2] U-57 bị đắm do tai nạn va chạm với một tàu buôn vào tháng 9, 1940. Nó được trục vớt, sửa chữa và tiếp tục phục vụ huấn luyện tại vùng biển Baltic, cho đến khi bị đánh chìm trong kế hoạch Regenbogen tại Kiel vào tháng 5, 1945.

Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-57
Đặt hàng 17 tháng 6, 1937
Xưởng đóng tàu Deutsche Werke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 256
Đặt lườn 14 tháng 9, 1937
Hạ thủy 3 tháng 9, 1938
Nhập biên chế 29 tháng 12, 1938
Xuất biên chế 16 tháng 9, 1940 [1]
Số phận
Tái biên chế 11 tháng 1, 1941 [1]
Xuất biên chế tháng 4, 1945 [1]
Số phận Bị đánh chìm, 3 tháng 5, 1945 [1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIC
Trọng tải choán nước
  • 291 t (286 tấn Anh) (nổi)
  • 341 t (336 tấn Anh) (chìm)
  • 435 t (428 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 43,9 m (144 ft 0 in) (chung)
  • 29,6 m (97 ft 1 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in)
Mớn nước 3,82 m (12 ft 6 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 1.900 hải lý (3.500 km; 2.200 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph) (nổi)
  • 35–42 hải lý (65–78 km; 40–48 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 21 938
Chỉ huy:
  • Trung úy / Đại úy Claus Korth
  • 29 tháng 12, 1938 – 4 tháng 6, 1940
  • Trung úy Erich Topp
  • 5 tháng 6 – 15 tháng 9, 1940
  • Thiếu úy / Trung úy Wilhelm Eiseke
  • 11 tháng 1, 1941 – 16 tháng 5, 1943
  • Trung úy Walter Zenker
  • 17 tháng 5, 1943 – 31 tháng 7, 1944
  • Thiếu úy / Trung úy Peter Kühl
  • 1 tháng 8, 1944 – tháng 4, 1945
Chiến dịch:
  • 11 chuyến tuần tra:
  • 1: 26 tháng 8 – 2 tháng 9 & 3 – 5 tháng 9, 1939
  • 2: 5 – 18 tháng 9, 1939
  • 3: 25 tháng 10 – 5 tháng 11, 1939
  • 4: 12 – 23 tháng 11 & 5 tháng 12, 1939
  • 5: 7 – 16 tháng 12, 1939
  • 6: 16 – 25 tháng 1, 1940
  • 7: 8 – 25 tháng 2, 1940
  • 8: 14 – 29 tháng 3, 1940
  • 9: 4 tháng 4 – 7 tháng 5 & 11 – 15 tháng 7, 1940
  • 10: 15 – 20 tháng 7 & 22 tháng 7 – 7 tháng 8, 1940
  • 11: 14 tháng 8 – 3 tháng 9, 1940
Chiến thắng:
  • 11 tàu buôn bị đánh chìm
    (48.053 GRT)
  • 1 tàu chiến phụ trợ bị đánh chìm
    (8.240 GRT)
  • 1 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (10.191 GRT)
  • 2 tàu buôn bị hư hại
    (10.403 GRT)

Thiết kế và chế tạo sửa

Phân lớp Type IIC là một phiên bản lớn hơn của Type IIB dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 291 t (286 tấn Anh) khi nổi và 341 t (336 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[3] Chúng có chiều dài chung 43,90 m (144 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 29,60 m (97 ft 1 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in) và mớn nước 3,82 m (12 ft 6 in).[3]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[3] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 7 kn (13 km/h) khi lặn,[3] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[3]

U-57 được đặt hàng vào ngày 17 tháng 6, 1937.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 14 tháng 9, 1937,[1] hạ thủy vào ngày 3 tháng 9, 1938,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 29 tháng 12, 1938[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Claus Korth.[1]

Lịch sử hoạt động sửa

U-57 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được mười một chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh. Nó đã đánh chìm mười một tàu buôn đối phương tải trọng 48.053 gross register tons (GRT) cùng một tàu chiến phụ trợ tải trọng8.240 GRT, đồng thời gây tổn thất toàn bộ một tàu buôn cùng làm hư hại hai tàu buôn nữa.[2]

Sau khi quay trở lại vai trò huấn luyện, tại Brunsbüttel (Tây Bắc Hamburg) vào ngày 3 tháng 9, 1940, U-57 gặp tai nạn va chạm với tàu buôn Na Uy Rona lúc 00 giờ 15 phút, và đắm tại tọa độ 53°53′B 09°09′Đ / 53,883°B 9,15°Đ / 53.883; 9.150, sáu thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng, và có 19 người sống sót. Con tàu được trục vớt vào ngày 9 tháng 9, đưa đến Kiel, xuất biên chế vào ngày 16 tháng 9 để sửa chữa tại xưởng tàu Deutsche Werke AG. U-57 quay trở lại hoạt động vào ngày 11 tháng 1, 1941.[1]

Vào tháng 8, 1943, U-57 cùng với tàu ngầm chị em U-58 tham gia vào thử nghiệm van dùng cho ống hơi do Deutsche Werke chế tạo. Trong thử nghiệm, ống hơi đã thế chỗ kính tiềm vọng thứ hai. Thử nghiệm thành công, nên một kiểu ống hơi có thể thu gọn được lắp đặt trước cầu tàu cho những tàu ngầm Type VIIC.[4]

Khi chiến tranh đi vào giai đoạn kết thúc, U-57 ngừng hoạt động vào tháng 4, 1945. Theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-57 bị đánh đắm tại Kiel vào ngày 3 tháng 5, 1945 để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.[1] Xác tàu đắm được trục vớt và tháo dỡ vào năm 1950.[1]

Tóm tắt chiến công sửa

U-57 đã đánh chìm mười một tàu buôn đối phương tải trọng 48.053 gross register tons (GRT) cùng một tàu chiến phụ trợ tải trọng8.240 GRT, đồng thời gây tổn thất toàn bộ một tàu buôn cùng làm hư hại hai tàu buôn nữa:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[2]
17 tháng 11, 1939 Kaunas   Litva 1.566 Bị đánh chìm
19 tháng 11, 1939 Stanbrook   Anh Quốc 1.383 Bị đánh chìm
13 tháng 12, 1939 Mina   Estonia 1.173 Bị đánh chìm
20 tháng 1, 1940 Miranda   Na Uy 1.328 Bị đánh chìm
26 tháng 1, 1940 HMS Durham Castle   Hải quân Hoàng gia Anh 8.240 Bị đánh chìm (mìn)
14 tháng 2, 1940 Gretafield   Anh Quốc 10.191 Tổn thất toàn bộ
21 tháng 2, 1940 Loch Maddy   Anh Quốc 4.996 Bị hư hại
25 tháng 3, 1940 Daghestan   Anh Quốc 5.742 Bị đánh chìm
17 tháng 7, 1940 Manipur   Anh Quốc 8.652 Bị đánh chìm
17 tháng 7, 1940 O.A. Brodin   Thụy Điển 1.960 Bị đánh chìm
3 tháng 8, 1940 Atos   Thụy Điển 2.161 Bị đánh chìm
24 tháng 8, 1940 Cumberland   Anh Quốc 10.939 Bị đánh chìm
24 tháng 8, 1940 Havildar   Anh Quốc 5.407 Bị hư hại
24 tháng 8, 1940 Saint Dunstan   Anh Quốc 5.681 Bị đánh chìm
25 tháng 8, 1940 Pecten   Anh Quốc 7.468 Bị đánh chìm

Tham khảo sửa

Ghi chú sửa

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích sửa

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Helgason, Guðmundur. “The Type IIC U-boat U-57”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-57”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  4. ^ Rossler (2001).

Thư mục sửa

Liên kết ngoài sửa

  • Helgason, Guðmundur. “The Type IIC boat U-57”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 57”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2024.