USS Tigrone (SS-419)
USS Tigrone (SS-419/SSR-419/AGSS-419) là một Lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá mập báo [1] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, chỉ thực hiện được ba chuyến tuần tra trong chiến tranh và tiêu diệt một tàu chở hàng nhỏ trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Chiếc tàu ngầm đã tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1975, và cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu vào năm 1976. Tigrone được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Tàu ngầm USS Tigrone (SSR-419) trong cấu hình cột mốc radar
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Tigrone (SSR-419) |
Đặt tên theo | cá mập báo [1] |
Đặt hàng | 22 tháng 2, 1943[2] |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[3] |
Đặt lườn | 8 tháng 5, 1944[3] |
Hạ thủy | 20 tháng 7, 1944[3] |
Người đỡ đầu | bà Mary B. Grisham |
Nhập biên chế | 25 tháng 10, 1944[3] |
Xuất biên chế | tháng 1, 1947[3] |
Tái biên chế | tháng 7, 1948[3] |
Xuất biên chế | tháng 10, 1957[3] |
Tái biên chế | 10 tháng 3, 1962[3] |
Xuất biên chế | 27 tháng 6, 1975[3] |
Xóa đăng bạ | 27 tháng 6, 1975[3] |
Biệt danh | Tiger-One [4] |
Danh hiệu và phong tặng | 2 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Đánh chìm như mục tiêu ngoài khơi mũi Hatteras, 25 tháng 10, 1976[5] |
Đặc điểm khái quát(Khi hoàn tất) | |
Lớp tàu | lớp Tench[5] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [5] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m) [5] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m) [5] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m) [6] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [6] |
Vũ khí |
|
Thiết kế và chế tạo
sửaThiết kế
sửaLớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[8]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[5][9]
Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7][6]
Chế tạo
sửaTigrone được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[2] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 8 tháng 5, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 7, 1944, được đỡ đầu bởi bà Mary B. Grisham (nhủ danh Breault), phu nhân Đại tá Hải quân Charles F. Grisham, giám đốc Xưởng hải quân Portsmouth, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 10, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Hiram Cassedy.[1][10][2]
Lịch sử hoạt động
sửaThế Chiến II
sửaTigrone hoàn tất việc trang bị vào giữa tháng 11, 1944, và tiến hành huấn luyện ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire và New London, Connecticut, trước khi xuất phát từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London vào ngày 31 tháng 12. Sau mười ngày huấn luyện cùng Trường Sonar Hải quân tại Key West, Florida, nó lên đường vào ngày 16 tháng 1, 1945 để hướng sang khu vực Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama. Nó thực hành huấn luyện trên đường đi cùng với tàu vận chuyển đổ bộ Riverside (APA-102), và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 16 tháng 2.[1][2]
Chuyến tuần tra thứ nhất
sửaTigrone khởi hành từ Oahu vào ngày 9 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, có ghé đến Guam từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 3 để sửa chữa động cơ diesel. Sau đó nó hoạt động phối hợp cùng các tàu ngầm Bullhead (SS-332) và Blackfish (SS-221) trong thành phần một bầy sói dưới sự chỉ huy chung của Trung tá Cassedy, hạm trưởng Tigrone. Bầy sói, sau đó còn có thêm tàu ngầm Seahorse (SS-304) tham gia, hướng sang khu vực tuần tra được chỉ định tại biển Đông, hình thành nên một tuyến tuần tra để chặn đánh tàu bè Nhật Bản.[1][2]
Phần thưởng
sửaTigrone được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][10]
Tham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ a b c d e f Naval Historical Center. “Tigrone (SS-419)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
- ^ a b c d e Helgason, Guðmundur. “Tigrone (SS-419)”. uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j Friedman 1995, tr. 285-304
- ^ Poro, Jane (2 tháng 5 năm 1975). “Navy's oldest submarine ending 31-year career”. New London Day. New London, Connecticut. tr. 1. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
- ^ a b c d e f g h i j k l m Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
- ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
- ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
- ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
- ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
Thư mục
sửa- Naval Historical Center. “Tigrone (SS-419)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
- Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN 0-313-26202-0.
- Blair, Clay Jr. (1975). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Philadelphia: Lippincott. ISBN 0-397-00753-1.
- Friedman, Norman (1994). U.S. Submarines Since 1945: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 1-55750-260-9.
- Friedman, Norman (1995). U.S. Submarines Through 1945: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 1-55750-263-3.
- Gardiner, Robert; Chesneau, Roger (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Conway Maritime Press. ISBN 0-83170-303-2.
- Lenton, H. T. (1973). American Submarines (Navies of the Second World War). New York: Doubleday & Co. ISBN 978-0385047616.
Liên kết ngoài
sửa