I-17 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ và là tàu chiến Phe Trục đầu tiên bắn phá lãnh thổ lục địa Hoa Kỳ. Sau đó I-17 hoạt động trong các quần đảo AleutGuadalcanal, trước khi bị tàu đánh cá vũ trang New Zealand HMNZS Tuithủy phi cơ Kingfisher phối hợp đánh chìm tại khu vực Noumea vào ngày 19 tháng 8, 1943.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 38
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka
Đặt lườn 18 tháng 4, 1938
Đổi tên I-17
Hạ thủy 19 tháng 7, 1939
Nhập biên chế 24 tháng 1, 1941
Xóa đăng bạ 1 tháng 12, 1943
Số phận Bị tàu đánh cá vũ trang HMNZS Tuithủy phi cơ Kingfisher đánh chìm, 19 tháng 8, 1943
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-17 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 38 tại Xưởng vũ khí Hải quân YokosukaYokosuka vào ngày 18 tháng 4, 1938.[6][7] Nó được đổi tên thành I-17 trước khi được hạ thủy vào ngày 19 tháng 7, 1939,[6][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 24 tháng 1, 1941,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Nishino Kozo.[6][7]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-17 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[6] Vào cùng ngày này, nó cùng các tàu ngầm I-15I-16 được điều về Đội tàu ngầm 1 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7] Từ ngày 5 tháng 8 đến ngày 9 tháng 9, nó tạm thời đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 1, thay phiên cho chiếc I-15.[7] Vào ngày 10 tháng 11, bên trên soái hạm Katori, Phó đô đốc Shimizu Mitsumi, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, công bố Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[8]

Tấn công Trân Châu Cảng

sửa

Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho Kế hoạch Z, Hải đội Tàu ngầm 1 được điều gia nhập Lực lượng Viễn Chinh Tiền Phương của Đệ Lục hạm đội; và I-17 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 21 tháng 11, 1941, cùng các tàu ngầm I-9, I-15I-25 hướng sang khu vực quần đảo Hawaii.[7][8] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[7]

Vào lúc diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, I-17 tuần tra ở khu vực phía Bắc Oahu, với nhiệm vụ đánh chặn mọi tàu bè thoát ra khỏi Trân Châu Cảng. Vào ngày 9 tháng 12, tàu ngầm I-6 báo cáo phát hiện một tàu sân bay lớp Lexington cùng hai tàu tuần dương ngoài khơi Oahu đang đi về hướng Đông Bắc; vì vậy I-17 cùng các tàu ngầm khác được lệnh truy đuổi. Nó không thể đuổi kịp mục tiêu, và hai lần bị máy bay tuần tra đối phương tấn công.[7]

Tuần tra dọc bờ Tây Hoa Kỳ

sửa

Đến ngày 14 tháng 12, I-17 cùng với Hải đội Tàu ngầm 1 được lệnh tham gia cùng các tàu ngầm I-10I-26, để tuần tra dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ nhằm đánh phá tàu bè đối phương, đồng thời chuẩn bị cho một đợt bắn phá các thành phố tại lục địa Hoa Kỳ.[7] Nó đi đến vị trí tuần tra ngoài khơi mũi Mendocino, khoảng 250 mi (400 km) về phía Bắc San Francisco, California.[7] Chiều tối ngày 18 tháng 12, ở vị trí 12 mi (19 km) ngoài khơi mũi Mendocino, I-17 tấn công bằng hải pháo 14-cm chiếc tàu chở hàng Samoa (1.997 tấn), rồi phóng một quả ngư lôi tấn công, nhưng Samoa mở hết tốc độ chạy thoát.[7] Đến xế trưa ngày 20 tháng 12, ở vị trí 5 mi (8,0 km) ngoài khơi mũi Mendocino, I-17 tấn công bằng hải pháo chiếc tàu chở dầu SS Emidio (6.912 tấn), vốn đang trên đường từ Seattle, Washington đến San Pedro, California. Emidio trúng năm phát đạn và bất động giữa biển, nhưng I-17 phải lặn khẩn cấp khi hai máy bay tuần tra xuất hiện và tấn công chiếc tàu ngầm bằng mìn sâu. I-17 sau đó phóng ngư lôi đánh chìm Emidio tại tọa độ 34°30′B 124°50′T / 34,5°B 124,833°T / 34.500; -124.833.[7]

Ba ngày sau đó, 23 tháng 12, ở vị trí 80 mi (130 km) về phía Tây Nam Eureka, California, I-17 lại tấn công chiếc tàu chở dầu Larry Doheny (7.038 tấn) từ khoảng cách 3.060 yd (2.800 m), bắn trúng đích bốn phát đạn pháo trước khi phải lặn khẩn cấp né tránh một máy bay tuần tra. Nó phóng thêm một quả quả ngư lôi nhắm vào Larry Doheny, tin rằng đã trúng đích và đánh chìm mục tiêu, nhưng quả ngư lôi bị kích nổ sớm và chiếc tàu chở dầu chỉ bị hư hại nhẹ.[7] Tuy nhiên kế hoạch bắn phá các thành phố Hoa Kỳ dọc bờ Tây thoạt tiên bị trì hoãn, và sau cùng bị hủy bỏ vì các tàu ngầm đã cạn nhiên liệu và đối phương tăng cường tuần tra phòng thủ.[9] I-17 kết thúc chuyến tuần tra khi về đến Kwajalein vào ngày 11 tháng 1, 1942.[7]

Bắn phá bờ Tây Hoa Kỳ

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f “I-17 ex No-38”. ijnsubsite.info. 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-17: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 8 năm 2016). “IJN Submarine I-9: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ Webber (1975), tr. 14–16.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Cressman, Robert J. (1999). “Official Chronology of the US Navy in World War II - Chapter V: 1943”. Naval Historical Center. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Linder, Bruce (2001). San Diego's Navy. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-531-4.
  • McDougall, R. J. (1989). New Zealand Naval Vessels. GP Books, Informing New Zealanders. tr. 59–61. ISBN 9780477013994.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.
  • Webber, Ebbert (1975). Retaliation: Japanese Attacks and Allied Countermeasures on the Pacific Coast in World War II. Oregon State University Press. ISBN 0870710761.
  • Waters, Sydney David (1956). The Royal New Zealand Navy. Wellington, New Zealand: Historical Publication Branch.

Đọc thêm

sửa
  • Harker, Jack (2000). The Rockies: New Zealand Minesweepers at War. Wellington, New Zealand: Silver Owl Press. ISBN 9780959797992.
  • Jentschura, Hansgeorg; Jung, Dieter; Mickel, Peter (1977). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 9780870218934.

Liên kết ngoài

sửa