I-15 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã tham gia vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng, tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ và hoạt động trong các Chiến dịch K, quần đảo AleutGuadalcanal, bao gồm các trận chiến Đông Solomonquần đảo Santa Cruz trước khi bị tàu quét mìn USS Southard (DMS-10) đánh chìm gần San Cristóbal vào ngày 10 tháng 11, 1942.

I-15 trong lúc chạy thử máy
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 37
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure, Hiroshima
Đặt lườn 25 tháng 1, 1938
Hạ thủy 7 tháng 3, 1939
Nhập biên chế 30 tháng 9, 1940
Số phận Bị tàu quét mìn USS Southard (DMS-10) đánh chìm gần San Cristóbal , 10 tháng 11, 1942
Xóa đăng bạ 24 tháng 12, 1942
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-15 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 37 tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure, Hiroshima vào ngày 25 tháng 1, 1938.[6][7] Nó được đổi tên thành I-15 trước khi được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3, 1939,[6][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 30 tháng 9, 1940,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Toyojiro Oyama.[6]

Lịch sử hoạt động

sửa

1940 - 1941

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-15 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[7] Vào ngày 15 tháng 11, 1940, nó cùng tàu ngầm I-16 được điều về Đội tàu ngầm 1 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[7]

Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương, Hải đội Tàu ngầm 1 được điều gia nhập Lực lượng Viễn Chinh Tiền Phương của Đệ Lục hạm đội; và I-15 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 21 tháng 11, 1941, cùng các tàu ngầm I-9, I-17I-25 hướng sang khu vực quần đảo Hawaii để tham gia Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[7][8] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

Bị mất

sửa

Đang trong hành trình vận chuyển hàng tiếp liệu từ Espiritu Santo sang Guadalcanal, tàu quét mìn cao tốc USS Southard (DMS-10) trông thấy I-15 đang di chuyển trên mặt nước để nạp điện cho ắc-quy, tại vị trí ngoài khơi mũi Recherche, San Cristóbal lúc 02 giờ 30 phút ngày 10 tháng 11.[7] Southard tiếp cận đối thủ và khai hỏa pháo 4,5 inch (114 mm) lúc 02 giờ 31 phút nhắm vào I-15.[7] I-15 lặn khẩn cấp để né tránh, rồi phóng hai quả ngư lôi phản công Southard nhưng không trúng đích.[7] Southard dò được tín hiệu chiếc tàu ngầm qua sonar lúc 02 giờ 42 phút, và trong nhiều giờ tiếp theo đã tung ra tổng cộng sáu lượt tấn công bằng mìn sâu.[7] Tàu ngầm I-171 đang tuần tra tại khu vực lân cận đã nghe thấy các tiếng nổ của mìn sâu.[7] Bị hư hại bởi mìn sâu, I-15 buộc phải trồi lên mặt nước tại khu vực phía Nam eo biển Indispensable lúc 10 giờ 03 phút, và tiếp tục chịu đựng hỏa lực hải pháo của Southard từ khoảng cách 2.000 yd (1.800 m).[7] I-15 bị bắn trúng tháp chỉ huy và đắm phần mũi trước tại tọa độ 10°13′N 161°09′Đ / 10,217°N 161,15°Đ / -10.217; 161.150, với tổn thất toàn bộ 91 thành viên thủy thủ đoàn.[7]

Vào ngày 5 tháng 12, 1942, Hải quân Nhật Bản công bố I-15 có thể đã bị mất tại khu vực Guadalcanal với tổn thất toàn bộ thành viên thủy thủ đoàn.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 24 tháng 12, 1942.[7][6]

Một số nguồn đôi khi ghi công nhầm cho Southard đã đánh chìm tàu ngầm I-172 thay vì I-15 vào ngày 10 tháng 11, 1942.[7] Vào ngày 14 tháng 12, 1942, năm tuần sau khi Southard đánh chìm I-15, tàu ngầm USS Wahoo (SS-238) tự nhận đã đánh chìm một tàu ngầm mà nó nhận định nhầm là I-15.[9]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e “I-15 (1) ex No-37”. ijnsubsite.info. 2018. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 10 năm 2016). “IJN Submarine I-15: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 8 năm 2016). “IJN Submarine I-9: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ O'Kane 1987, tr. 96–98.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
  • O'Kane, Richard H. (1987). Wahoo: The Patrols of America's Most Famous WWII Submarine. Presidio Press. ISBN 978-0-89141-301-1.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa