I-9 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type A (巡潜甲型潜水艦 Junsen Kō-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng, tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ và hoạt động trong các Chiến dịch K, quần đảo AleutGuadalcanal trước khi bị tàu khu trục Hoa Kỳ USS Frazier đánh chìm ngoài khơi Kiska vào ngày 13 tháng 6, 1943.

Tàu ngầm I-9 đang hoạt động huấn luyện trong vịnh Saeki, Ōita, tháng 10, 1941
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-9
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure, Hiroshima
Đặt lườn 25 tháng 1, 1938
Hạ thủy 20 tháng 5, 1939
Nhập biên chế 13 tháng 2, 1941
Số phận Bị tàu khu trục USS Frazier đánh chìm ngoài khơi Kiska, 13 tháng 6, 1943
Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1943
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type A1
Trọng tải choán nước
  • 2.966 tấn (2.919 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 4.195 tấn (4.129 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in) chung [1]
Sườn ngang 9,5 m (31 ft 2 in)[1]
Mớn nước 5,3 m (17 ft 5 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.400 hp (1.800 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 16.000 nmi (30.000 km; 18.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi) [1]
  • 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 114
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
  • Quân khu Hải quân Yokosuka [3]
  • Hải đội Tàu ngầm 1
Chỉ huy:
  • Toyojiro Oyama[3]
  • 13 tháng 2, 1941 – 31 tháng 7, 1941
  • Akiyoshi Fuji
  • 31 tháng 7, 1941 – 13 tháng 6, 1943

Thiết kế và chế tạo sửa

Thiết kế sửa

Tàu ngầm Type A1 là một phiên bản của lớp Junsen 3 (J3) dẫn trước, với tầm xa hoạt động vượt trội, thiết bị hỗ trợ máy bay được cải tiến, và được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm.[4] Chúng có trọng lượng choán nước 2.966 tấn (2.919 tấn Anh) khi nổi và 4.195 tấn (4.129 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in), mạn tàu rộng 9,5 m (31 ft 2 in) và mớn nước sâu 5,3 m (17 ft 5 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 114 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.200 mã lực (895 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 19 hải lý trên giờ (35 km/h; 22 mph) và 8,25 hải lý trên giờ (15,28 km/h; 9,49 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động 16.000 hải lý (30.000 km; 18.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 90 nmi (170 km; 100 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

Type A1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 18 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai khẩu pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đôi.[6] Không giống như Type J3 dẫn trước, hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[6]

Chế tạo sửa

I-9 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure, Hiroshima vào ngày 25 tháng 1, 1938.[3][7] Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 5, 1939,[3][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 13 tháng 2, 1941,[3][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Toyojiro Oyama.[3]

Lịch sử hoạt động sửa

1941 sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-9 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka,[7] và Trung tá Hải quân Akiyoshi Fuji tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu vào tháng 7, 1941.[3] Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương, I-9 được điều động gia nhập Lực lượng Viễn Chinh Tiền Phương của Đệ Lục hạm đội vào tháng 11, 1941, và phục vụ như là soái hạm của Chuẩn đô đốc Tsutomu Sato, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 1.[3][7]

Vào ngày 21 tháng 11, với đô đốc Sato trên tàu và mang theo một thủy phi cơ Watanabe E9W ("Slim"),[7] I-9 cùng các tàu ngầm I-15, I-17I-25 rời Yokosuka để hướng sang khu vực quần đảo Hawaii, [7] tham gia Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[7] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất - Trận Trân Châu Cảng sửa

Bị mất sửa

Vào ngày 13 tháng 6, tàu khu trục Hoa Kỳ USS Frazier (DD-607) đang tuần tra tại bờ biển Kiska trong hoàn cảnh sương mù dày đặc, ở vị trí 15 nmi (28 km) ngoài khơi Sirius Point lúc 17 giờ 58 phút, khi nó phát hiện qua radar I-9 đang đi trên mặt biển ở khoảng cách 6.900 yd (6.309,36 m).[7] Frazier tiếp cận mục tiêu với tốc độ 20 kn (37 km/h), và dò được mục tiêu qua sonar.[7] Một trinh sát viên của Frazier phát hiện kính tiềm vọng đối thủ ở khoảng cách 100 thước Anh (91 m) lúc 20:09.[7] Frazier tấn công bằng hải pháo, một phát bắn trúng kính tiềm vọng đối phương. Sau đó nó tiếp tục thả một lượt mìn sâu, phát hiện nhiều bọt khí, dầu diesel và mảnh vỡ trồi lên mặt biển.[7] Chiếc tàu khu trục thả thêm hai lượt mìn sâu để chắc chắn mục tiêu đã bị phá hủy.[7] I-9 bị mất với tổn thất nhân mạng toàn bộ tại vị trí về phía Tây Bắc Kiska, tại tọa độ 52°08′B 177°03′Đ / 52,133°B 177,05°Đ / 52.133; 177.050.[7][8][9]

Vào ngày 15 tháng 6, Hải quân Nhật Bản công bố I-9 có thể đã bị mất ngoài khơi Kiska với tổn thất toàn bộ 101 thành viên thủy thủ đoàn.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 8, 1943.[7]

Sau chiến tranh, tác giả Samuel Eliot Morison trong History of United States Naval Operations in World War II nhận định sai rằng Frazier đã đánh chìm tàu ngầm I-31 ngoài khơi Kiska vào ngày 13 tháng 6, 1943. Thực ra Frazier đã đánh chìm I-31 trước đó vào ngày 12 tháng 5, 1943 tại địa điểm ngoài khơi đảo Attu.[7][10] Mặc khác, nguồn Dictionary of American Naval Fighting Ships cho rằng Frazier tấn công hai mục tiêu khác nhau ngoài khơi Kiska trong ngày 10-11 tháng 6, nhưng không biết chắc kết quả. [10]

Tham khảo sửa

Ghi chú sửa

Chú thích sửa

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type A1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h “I-9 ex No-35”. ijnsubsite.info. 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 188.
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 101.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 8 năm 2016). “IJN Submarine I-9: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ Boyd & Yoshida (2002), tr. 211.
  9. ^ Stille (2007), tr. 19.
  10. ^ a b Naval Historical Center. Frazier (DD-607). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.

Thư mục sửa

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài sửa