I-30 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã từng hoạt động tuần tra tại Ấn Độ Dương trước khi được huy động tham gia nhiệm vụ Yanagi nhằm trao đổi vật tư chiến lược, nhân sự và hàng hóa với Đức Quốc Xã. Dưới tên mã Sakura, I-30 là tàu ngầm Nhật Bản đầu tiên đi đến Châu Âu trong chiến tranh, đi đến cảng Lorient, Pháp vào tháng 8, 1942. Tuy nhiên trong hành trình quay trở về nó bị đắm do trúng thủy lôi của Anh bên ngoài Keppel Harbour, Singapore vào ngày 13 tháng 10, 1942.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 143
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure
Đặt lườn 7 tháng 6, 1939
Hạ thủy 17 tháng 9, 1940
Đổi tên I-35, 17 tháng 9, 1940
Đổi tên I-30, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 28 tháng 2, 1942
Nhập biên chế 28 tháng 2, 1942
Xóa đăng bạ 10 tháng 11, 1942
Số phận Đắm do trúng thủy lôi của Anh tại Keppel Harbour, Singapore, 13 tháng 10, 1942
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-30 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 144 tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure vào ngày 7 tháng 6, 1939.[6][7] Nó được đổi tên thành I-35 đồng thời được hạ thủy vào ngày 17 tháng 9, 1940,[6][7] rồi đổi tên thành I-30 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 28 tháng 2, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Endo Shinobu Kono Masamichi.[6]

Nhiệm vụ Yanagi

sửa

Theo tinh thần Hiệp ước Ba bên (Tripartite Pact) được ký kết giữa Đức Quốc Xã, ÝNhật Bản vào tháng 9, 1940, Nhật Bản trao đổi nhân sự, vật tư chiến lược và hàng hóa với Đức và Ý, thoạt tiên sử dụng tàu chở hàng, nhưng phải chuyển sang tàu ngầm khi các vùng biển bị lực lượng Đồng Minh phong tỏa.

Lần lượt đã tổ chức các chuyến: I-30 vào tháng 4, 1942; I-29 vào tháng 4, 1943; I-8 vào tháng 6, 1943; I-34 vào tháng 10, 1943; U-511 vào tháng 8, 1943; I-52 vào tháng 6, 1944; và U-234 vào tháng 5, 1945. Trong số này, I-30 đắm do trúng thủy lôiI-34 bị tàu ngầm Anh HMS Taurus đánh chìm, sau đó I-52 chịu cùng chung số phận. Vào tháng 5, 1945, U-234 đang thực hiện chuyến đi cuối cùng khi Đức Quốc Xã đầu hàng, nên U-234 bị chiếm giữ tại Newfoundland, kết thúc việc trao đổi kỹ thuật với Nhật Bản.

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-30 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure.[6] Vào ngày 24 tháng 2, 1942, nó gia nhập Đội tàu ngầm 14 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7] Đến ngày 10 tháng 3, Đội tàu ngầm 14 được điều động về Hải đội Tàu ngầm 8 và trực thuộc Đệ Lục hạm đội,[6] đồng thời Trung tá Hải quân Endo Shinobu tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu.[6][7] I-30 rời Kure vào ngày 11 tháng 4, mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E14Y.[7] Bốn ngày sau đó, nó được điều động vào Lực lượng A trực thuộc Đệ Lục hạm đội, vốn còn bao gồm các tàu ngầm I-10, I-16, I-18, I-20 cùng các tàu tiếp liệu Aikoku MaruHōkoku Maru để hoạt động tuần tra khu vực phía Tây Ấn Độ Dương.[7]

Tuần tra Ấn Độ Dương

sửa

Đi đến Penang, Malaya vào ngày 20 tháng 4, I-30 cùng Aikoku Maru lên đường hai ngày sau đó để trinh sát những mục tiêu tiềm năng cho Lực lượng A dọc theo bờ biển Đông Phi.[7] Sử dụng thủy phi cơ E14Y mang theo, nó lần lượt trinh sát: Aden vào ngày 7 tháng 5; Djibouti vào ngày 8 tháng 5; ZanzibarDar es Salaam vào ngày 19 tháng 5; Mombasa vào ngày 20 tháng 5; Diego Suarez ở phía cực Bắc Madagascar vào ngày 24 tháng 5.[7] Phát hiện nhiều tàu chiến Hải quân Hoàng gia Anh tập trung tại Diego Suarez để tham gia Trận Madagascar, Lực lượng A quyết định tấn công cảng này bằng tàu ngầm bỏ túi.[7] Trong đêm 30 tháng 5, hai tàu ngầm bỏ túi lớp Kō-hyōteki xuất phát từ các tàu ngầm I-16I-20 đã xâm nhập cảng, phóng ngư lôi gây hư hại nặng cho thiết giáp hạm HMS Ramillies và đánh chìm tàu chở dầu British Loyalty.[8][7]

Chuyến đi sang Châu Âu

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g h i “I-30 ex I-35 ex No-143”. ijnsubsite.info. 10 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-30: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ “Midget Submarines at Diego Suarez, Madagascar 1942”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa