Mitsubishi Ki-51

(Đổi hướng từ Manshū Ki-71)

Chiếc Mitsubishi Ki-51 (Tên gọi của Lục quân là "Máy bay Tấn công Kiểu 99". Tên mã của Đồng Minh là "Sonia") là một kiểu máy bay ném bom hạng nhẹ/ném bom bổ nhào hoạt động cho Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Nó bay chuyến bay đầu tiên năm 1939. Lần đầu tiên được triển khai để chống lại các lực lượng Trung Hoa, nó cho thấy quá chậm để có thể chịu đựng được các máy bay tiêm kích của các lực lượng Đồng Minh. Tuy nhiên, nó thực hiện vai trò tấn công mặt đất rất hữu ích trên các mặt trận Trung Hoa-Miến Điện-Ấn Độ, nhất là khi phải hoạt động từ những sân bay dã chiến không phù hợp cho các kiểu máy bay khác. Khi chiến tranh gần kết thúc, nó bắt đầu được sử dụng trong các nhiệm vụ tấn công cảm tử kamikaze. Có tổng cộng 2.385 chiếc được chế tạo.

Mitsubishi Ki-51
KiểuMáy bay ném bom hạng nhẹ/Máy bay ném bom bổ nhào
Hãng sản xuấtMitsubishi
Chuyến bay đầu tiêntháng 8 năm 1939
Được giới thiệu1941
Khách hàng chínhLục quân Đế quốc Nhật Bản
Số lượng sản xuất2.385

Thiết kế và phát triển

sửa

Dựa theo một yêu cầu của Lục quân Đế quốc Nhật Bản vào tháng 12 năm 1937 cho một kiểu máy bay tấn công mặt đất, được đề nghị phát triển dựa trên kiểu Máy bay ném bom hạng nhẹ Ki-30, Mitsubishi đã sản xuất hai chiếc nguyên mẫu ký hiệu Mitsubishi Ki-51. Có hình dáng bên ngoài tương tự Ki-30, thiết kế mới nói chung có kích thước nhỏ hơn, buồng lái được thiết kế lại và đơn giản hơn để hai thành viên đội bay ngồi gần nhau. Vì không yêu cầu phải có khoang bom, cánh đơn được chuyển từ vị trí giữa sang gắn thấp, và động cơ được chọn là kiểu Mitsubishi Ha-26-II bố trí hình tròn. Việc bay thử nghiệm được thực hiện trong mùa hè năm 1939, sau đó được tiếp nối bằng 11 chiếc máy bay thử nghiệm hoạt động thực tế, tất cả được hoàn tất trước cuối năm đó. Một số cải tiến được thực hiện, nhưng quan trọng nhất là việc thêm vào khe cố định ở mép trước cánh để cải tiến việc điều khiển bay ở tốc độ thấp, và tăng cường vỏ giáp giữa động cơ và buồng lái.

Ngoài phiên bản tiêu chuẩn, cũng có những dự định phát triển phiên bản trinh sát chuyên dùng, trước mắt bằng cách cải tiến một chiếc Ki-51 thử nghiệm có buồng lái sau được thiết kế lại để trang bị máy ảnh trinh sát. Kết quả thử nghiệm tỏ ra khá hứa hẹn. Sau đó, có ba chiếc nguyên mẫu Ki-71 trinh sát chiến thuật được sản xuất dựa trên Ki-51, gắn động cơ Mitsubishi Ha-112-11 công suất 1.119 kW, càng hạ cánh xếp được, hai pháo 20 mm gắn trên cánh và các cải tiến nhỏ khác, nhưng chưa có chiếc nào được sản xuất hằng loạt.

Lịch sử hoạt động

sửa

Chiếc Ki-51 được đưa ra sử dụng trước tiên tại các chiến dịch tại Trung Hoa, và sau đó để chống lại Đồng Minh cho đến khi chiến tranh kết thúc. Tại các chiến trường quan trọng, chiếc Ki-51 tương đối chậm là mồi ngon cho các máy bay tiêm kích Đồng Minh; nhưng tại các chiến trường thứ yếu, nơi khả năng cất cánh từ những sân bay dã chiến ngắn là quý giá, những máy bay này được dùng hỗ trợ mặt đất trong vô số chiến dịch. Trong giai đoạn cuối của chiến tranh nó còn được dùng trong các cuộc tấn công cảm tử kamikaze.

Các nước sử dụng

sửa
  Nhật Bản

Đặc điểm kỹ thuật (Ki-51)

sửa

Đặc tính chung

sửa

Đặc tính bay

sửa

Vũ khí

sửa
  • 2 x Súng máy kiểu 89 7,7 mm bắn ra phía trước, được thay bằng Súng máy kiểu 1 12,7 mm trên các phiên bản mới hơn
  • 1 x súng máy 7,7 mm bắn ra phía sau
  • 200 kg (441 lb) bom các loại.

Tham khảo

sửa

[1] Lưu trữ 2007-09-26 tại Wayback Machine [2]

  • David D., The Complete Encyclopedia Of World Aircraft, Brown Packaging Books Ltd., London, 1997
  • Gunston B. ea., Jane's Fighting Aircraft of World War II, Random House Group Ltd, 2001
  • Wilson S., Aircraft of WWII, Airospace Publications Pty Ltd, Australia, 1998
  • Wings, Midway to Hiroshima, CD-Rom, Discovery/Maris multimedia, 1995

Nội dung liên quan

sửa

Máy bay tương tự

sửa

Trình tự thiết kế

sửa

Ki-45 - Ki-46 - Ki-48 - Ki-49 - Ki-51 - Ki-54 - Ki-55 - Ki-56 - Ki-57

Danh sách liên quan

sửa