Miền Nam (Việt Nam)
Miền Nam Việt Nam là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm lịch sử và thói quen sử dụng mà khái niệm này đôi khi được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ khác nhau theo nghĩa chính trị một cách không chính thức.

Khái niệm Sửa đổi
Sắc lệnh số 143-A/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã quy định gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Miền Nam Việt Nam là danh từ để chỉ:
- Phân định địa lý đồng nghĩa với Nam Bộ
- Phân định địa chính trị ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình) (Đàng Trong)
- Phân định hành chính đồng nghĩa với Nam Kỳ của nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc
- Phân định theo hiệp định Geneve là khu vực tập kết quân sự tạm thời phía nam giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17 của Quân đội Liên hiệp Pháp phân biệt với khu vực tập kết quân sự tạm thời phía bắc giới tuyến quân sự tạm thời của Quân đội nhân dân Việt Nam với giới tuyến quân sự tạm thời. Do thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp nên Quân đội Quốc gia Việt Nam được bố trí tập kết ở phía nam giới tuyến quân sự tạm thời. Các lực lượng bán vũ trang và tổ chức chính trị của Việt Minh được phép tập kết tại chỗ và không phải tập kết ra phía bắc giới tuyến tạm thời theo Quân đội nhân dân Việt Nam. Căn cứ Điều 14, Khoản a trong Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tạm thời có quyền quản lý hành chính phía bắc vỹ tuyến 17 cho tới khi tổ chức tổng tuyển cử trên toàn Việt Nam. Liên hiệp Pháp từ bỏ chủ quyền và quyền chủ quyền ở Việt Nam nhưng vẫn có quyền quản lý hành chính phía Nam vỹ tuyến 17.[1] Từ năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập dựa trên cơ sở chính trị của Việt Minh. Từ năm 1961, Quân giải phóng miền Nam được thành lập dựa trên những lực lượng bán vũ trang cũ của Việt Minh. Ngày 06/06/1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập với sự hỗ trợ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và 2 miền tái thống nhất hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Tổng tuyển cử ngày 2/7/1976.[2]
- Từ năm 1945, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16. Khái niệm này bắt nguồn từ thỏa thuận của các nước Đồng Minh về việc giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương thì vùng lãnh thổ Việt Nam được chia làm 2 phần, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới. Vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16 do quân Anh cai trị, về sau giao cho Pháp. Khái niệm này rất ít dùng.
- Từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, do ông Nguyễn Sơn làm Chủ tịch, ông Hoàng Quốc Việt làm Ủy viên chính trị. Tuy nhiên, khi đó Nam Bộ đã có Ủy ban Hành chính riêng, nên địa bàn quản lý của Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam gồm vùng đất sau này là Liên khu 5, tính từ các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi vào các tỉnh cực nam Trung Bộ, như Bình Thuận cùng với Tây Nguyên. Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng trụ sở tại thị xã Quảng Ngãi.
- Từ năm 1954 trở đi, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ do Liên hiệp Pháp và sau đó là chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát về mặt hành chính. Từ sau năm 1969 có thêm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý, kể từ phía nam vĩ tuyến 17, với ranh giới tự nhiên là sông Bến Hải, nay thuộc tỉnh Quảng Trị. Khái niệm này bắt nguồn từ Hiệp định Genève năm 1954 quy định 02 vùng tập kết quân sự giữa Quân đội nhân dân Việt Nam (phía Bắc) và Quân đội Liên hiệp Pháp (phía Nam) mà không được coi là biên giới quốc gia hay chính trị. Ranh giới này tồn tại đến tận năm 1976 sau khi Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức tổng tuyển cứ, thống nhất về mặt nhà nước.[3]
- Dựa trên cách phân chia vùng theo địa lý kinh tế thì miền Nam Việt Nam, còn được gọi là Nam Bộ, bao gồm các tỉnh ở phía nam Tây Nguyên và phía tây tỉnh Ninh Thuận. Vùng lãnh thổ này còn được chia thành 2 vùng lãnh thổ nhỏ là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Khái niệm này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Đây là cách chia Việt Nam thành 3 miền: Bắc (Bắc Bộ), Trung (Trung Bộ) và Nam (Nam Bộ).
Các tiểu vùng địa lý Sửa đổi
Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước đến Cà Mau và hai thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.
Khu vực này chia làm 2 vùng chính:
- Vùng Đông Nam Bộ hay miền Đông có 5 tỉnh và 1 thành phố:
- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, còn gọi là Tây Nam Bộ hay miền Tây, có 12 tỉnh và 1 thành phố:
Riêng tài liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê) lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vào miền Đông Nam Bộ.
Các tên gọi khác Sửa đổi
Phù Nam Sửa đổi
Nam Bộ xưa vốn là vùng đất đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Tên gọi Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên. Đến khoảng thế kỷ V-VI, Phù Nam được mở rộng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã do nước Chân Lạp của người Khmer đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay)[4].
Thủy Chân Lạp Sửa đổi
Sau khi đánh chiếm được Phù Nam, vùng đất này được đổi tên là Thủy Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở nên một quốc gia cường thịnh, mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và lưu vực sông Chao Phaya. Đến thế kỉ XVI thì triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và bước vào thời kì suy vong nên hầu như không có điều kiện quan tâm và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã phải vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) lập làng sinh sống[5].
Nam Triều Sửa đổi
Trong chiến tranh Lê – Mạc (1533–1592), Việt Nam được phân chia với nhà Mạc nắm giữ đồng bằng sông Hồng (Bắc Triều) và nhà Lê kiểm soát miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Định (Nam Triều).
Đàng Trong Sửa đổi
Tên gọi này bắt nguồn từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, với ranh giới xác định là ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn nên mới có tên gọi này. Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchina, hoặc Quinan để chỉ vùng lãnh thổ này.
Nam Hà Sửa đổi
Tên gọi Nam Hà xuất hiện cùng thời với tên gọi Đàng Trong. Nó có nghĩa đơn giản là "ở phía nam con sông", ở đây hàm ý chỉ con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít sử dụng phổ biến như tên gọi Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam.
Gia Định Sửa đổi
Gia Định ban đầu chỉ là cái tên để chỉ vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam vào năm 1698, sau mở rộng dần đến năm 1779 thì được dùng để chỉ toàn bộ vùng tương ứng với Nam Bộ hiện nay. Để tương ứng với đơn vị hành chính Bắc Thành ở phía bắc, từ năm 1802, vua Gia Long đã đặt ra Gia Định Trấn để cai quản vùng lãnh thổ từ Bình Thuận trở vào, gồm 5 trấn. Do dễ có sự nhầm lẫn nên từ năm 1808 đã được đổi tên là Gia Định Thành. Đứng đầu đơn vị hành chính này là một chức quan Lưu Trấn, sau 1808 đổi thành Tổng trấn. Vị Tổng trấn nổi tiếng nhất của Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt. Gia Định Thành tồn tại mãi đến năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt mất và vua Minh Mạng quyết định giải thể Gia Định Thành.
Nam Kỳ Sửa đổi
Nam Kỳ là tên gọi từ năm 1832, dùng để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quyền cai quản của Gia Định Thành trước kia. Do vua Minh Mạng chia vùng lãnh thổ này thành 6 tỉnh trực tiếp đặt dưới quyền cai quản của triều đình, nên nó còn có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.
Danh xưng Nam Kỳ quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) được người Pháp dùng để chỉ một quốc gia do họ lập nên vào năm 1946, về danh nghĩa cai quản vùng trước đây là thuộc địa Nam Kỳ. Tuy nhiên, quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và chỉ đến năm 1948 thì bị giải thể.
Nam Bộ Sửa đổi
Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Đế quốc Việt Nam. Song song với quá trình thành lập chính phủ, Hoàng đế Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ.
Tên gọi Nam Bộ được sử dụng lâu dài cho đến ngày nay.
Nam Phần Sửa đổi
Tên gọi Nam Phần ra đời vào khoảng năm 1947, sau khi chính phủ Nam Kỳ quốc giai đoạn đầu giải tán, và chính phủ Nam phần Việt Nam được thành lập. Sau đó chính phủ Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký thỏa ước thành lập Quốc gia Việt Nam, theo đó lãnh thổ Việt Nam được phân thành 3 đơn vị hành chính cấp Phần, là một cấp cao hơn tỉnh, đứng đầu là một Thủ hiến do Quốc trưởng chỉ định. Vùng lãnh thổ Nam Phần tương ứng với vùng lãnh thổ của Nam Bộ vào năm 1945.
Chú thích Sửa đổi
- ^ “Nhân Dân 23 Tháng Mười 1954 — Thư viện báo chí của Thư viện Quốc gia Việt Nam”. baochi.nlv.gov.vn.
- ^ dantri.com.vn. “Thời khắc đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh trong ký ức một vị tướng”. Báo điện tử Dân Trí.
- ^ baonghean.vn (25 Tháng tư 2017). “25/4/1976 - Ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất”. Báo Nghệ An điện tử.
- ^ Vấn đề nước Phù Nam Lưu trữ 2012-01-31 tại Wayback Machine khoalichsu.edu, truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.
- ^ Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân Lạp Lưu trữ 2012-01-31 tại Wayback Machine khoalichsu.edu, truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.
Tham khảo Sửa đổi
- Atlat địa lý Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục 2009
- Atlat hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Bản Đồ 2008
Xem thêm Sửa đổi
Đọc thêm Sửa đổi
- Li, Tana (1998). Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries. Ithaca, NY: Cornell University Press.