Peñarol
Club Atlético Peñarol (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [kluβ aˈtletiko peɲaˈɾol] ( nghe) liên_kết=| Về âm thanh này dịch: Câu lạc bộ thể thao Peñarol) là một câu lạc bộ thể thao ở Uruguay đến từ thành phố Montevideo. Cái tên "Peñarol" xuất phát từ quận Peñarol ở ngoại ô thủ đô Montevideo.[2] Trong suốt lịch sử của mình, câu lạc bộ cũng tổ chức nhiều đội các môn thể thao khác, như bóng rổ [3] và đạp xe ngoài môn chính là bóng đá [4] vốn là trọng tâm chính của đội, một môn thể thao mà câu lạc bộ có thành tích rất cao,[5] cũng như là chưa bao giờ bị rớt khỏi hạng đấu cao nhất Uruguay.
Tên đầy đủ | Club Atlético Peñarol | |||
---|---|---|---|---|
Biệt danh | Manyas, Aurinegros, Carboneros, Mirasoles | |||
Thành lập | 28 tháng 9 năm 1891[note 1] | |||
Sân | Estadio Campeón del Siglo | |||
Sức chứa | 40,000 | |||
Chairman | Jorge Carlos Barrera | |||
Người quản lý | Diego Forlán | |||
Giải đấu | Primera División | |||
2019 | Primera División, 2nd (runners-up) | |||
Trang web | Trang web của câu lạc bộ | |||
| ||||
Ở đấu trường quốc tế, Peñarol là người vô địch Copa Libertadores nhiều thứ thứ ba với năm nâng cúp,[6] cũng như đồng kỷ lục về vô địch Cup Liên lục địa với ba lần.[7] Vào tháng 9 năm 2009, câu lạc bộ đã được IFFHS (tổ chức thống kê bóng đá) chọn là Câu lạc bộ thế kỷ của Nam Mỹ.[5]
Ngoài bóng đá, các câu lạc bộ còn có các đội bóng bầu dục, futsal, bóng đá nữ và điền kinh.
Lịch sử
sửaNguồn gốc của đội
sửaVào ngày 28 tháng 9 năm 1891, các công chức của Công ty Đường sắt Trung ương Uruguay đã thành lập Câu lạc bộ cricket đường sắt trung ương Uruguay (CURCC) của Montevideo, với mục đích hỗ trợ việc "tập luyện môn cricket, bóng bầu dục và các môn thể thao nam khác".
Công ty Đường sắt Trung ương Uruguay đã hoạt động tại Uruguay từ năm 1878,[2] với 118 nhân viên, 72 người Anh, 45 người Uruguay và một người Đức. Do phần lớn nhân viên là người Anh nên văn hóa Anh cũng ảnh hưởng 1 phần trong quá trình thành lập đội.
Thời gian này, đội được biết đến với cái tên CURCC ở quận Peñarol, khoảng 10 km từ trung tâm thủ đô Montevideo. Tên gọi của quận Peñarol lại xuất phát từ một thành phố của Ý (do ảnh hưởng từ những di dân từ Ý). Chủ tịch đầu tiên của câu lạc bộ là ông Frank Henderson, giữ vị trí cho đến năm 1899.[8]
Năm 1892, CURCC chuyển trọng tâm từ môn cricket và bóng bầu dục sang bóng đá.[9] Trận đấu đầu tiên của câu lạc bộ ở môn bóng đá là với lại một đội học sinh từ trường trung học Anh tại địa phương và kết thúc với chiến thắng 2-0 cho đội. Năm 1895, cầu thủ bóng đá người Uruguay Julio Negrón được chọn làm đội trưởng không phải người Anh đầu tiên của đội bóng.[10]
Danh hiệu đầu tiên
sửaNăm 1900, CURCC là một trong bốn thành viên sáng lập của Liên đoàn bóng đá Uruguay,[11] ra mắt trong một trận đối chính thức vào ngày 10 tháng 6 trong trận đối với đội Albion và giành chiến thắng 2-1.[12] Câu lạc bộ đã giành chức vô địch đầu tiên của Uruguay vào năm đó, và bảo vệ thành công vào năm 1901, 1905 và 1907. Năm 1906, ông Charles W. Bayne tiếp quản đường sắt, và từ chối tài trợ cho đội bóng đá do vấn đề tài chính. Xung đột giữa công ty đường sắt và câu lạc bộ bóng đá đã dẫn đến việc ngưng liên kết giữa đội vóng và công ty vào năm 1913.[13]
Năm 1908, câu lạc bộ rời giải đấu vô địch quốc gia Uruguay sau khi ban tổ chức giải từ chối yêu cầu được đá lại trận đấu với FC Dublín. CURCC thua trận 2-3 và tin rằng trận thua trên là do các quyết định sai lầm, gây ra bởi áp lực từ những người hâm mộ cuồng nhiệt của đội chủ nhà. Cùng với Peñarol, đội Nacional cũng đã rút lui khỏi giải đấu, vì cả hai đội đều đồng ý rằng "Los Partidos se ganan en la Cancha", hoặc dịch ra: kết quả chỉ được quyết định trên sân.[11] Đội quay trở lại giải năm sau đó.
Một năm sau chức vô địch Uruguay năm 1911 của đội, câu lạc bộ đã cố gắng thay đổi một số chính sách. Các đề xuất bao gồm cho phép nhiều cầu thủ không phải nhân viên công ty tham gia đội, cũng như đổi tên thành "CURCC Peñarol". Vào tháng 6 năm 1913, các đề xuất đã bị từ chối bởi công ty. Công ty đường sắt, do đó đã quyết định tách phần bóng đá chuyên nghiệp thành một câu lạc bộ riêng biệt, không dính dáng đến công ty. Do đó, đây là ngày chính thức thành lập đội Peñarol. Peñarol có trận đấu đầu tiên với đội Nacional, trận "Clasico" đầu tiên [14]. Cùng với Nacional, 2 đội bắt đầu thống trị bóng đá Uruguay cho tới ngày nay.
CURCC tiếp tục chơi bóng đá nghiệp dư cho đến khi bị giải thể vào ngày 22 tháng 1 năm 1915 và quyên tặng tất cả các danh hiệu của họ cho Bệnh viện Anh-Montevideo, chứ không phải cho Peñarol. Tuy nhiên, các liên đoàn bóng đá vẫn tính các danh hiệu dành được trước năm 1913 của CURCC là của đội Peñarol.
C.A. Peñarol
sửaVào ngày 12 tháng 3 năm 1914, Peñarol đã thay thế vị trí của CURCC ở trong Liên đoàn bóng đá Uruguay, ngay sau khi thành lập vào năm 1913. Trong những năm đầu tiên, Peñarol không thành công, mặc dù một sân vận động mới của riêng đội (Las Acacias) đã khai trương vào ngày 19 tháng 5 năm 1916.[15] Câu lạc bộ đã giành được hai chức vô địch đầu tiên vào năm 1918 và 1920.
Vào tháng 11 năm 1922, Hiệp hội bóng đá Uruguay (AUF) đã quyết định trục xuất Peñarol vì câu lạc bộ đã chơi một trận đấu giao hữu với Racing, một hành động sai điều lệ do Racing là một câu lạc bộ Argentina trực thuộc Asociación Amateurs de Football (một liên đoàn được thành lập năm 1919, cạnh tranh trực tiếp và không được công nhận với liên đoàn bóng đá chính thức Argentina, AFA).[16]
Do đó Peñarol cùng với các câu lạc bộ khác sau đó đã tổ chức một liên đoàn riêng biệt mới, có tên là Liên đoàn bóng đá Uruguay (FUF), tổ chức giải vô địch riêng. Peñarol đã giành chức vô địch mùa năm 1924. Giải đấu chỉ tồn tại một thời gian ngắn, trước khi, Peñarol giành được Copa del Consejo Provisorio năm 1926, giải đấu đánh giấu sự tái hợp giũa AUF và FUF.[17]
Chuyến du đấu châu Âu đầu tiên
sửaNăm 1927, Peñarol thực hiện chuyến du đấu đầu tiên tới châu Âu, chơi tổng cộng 19 trận đấu với các đội đến từ Đức, Thụy Sĩ, Áo, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc và Pháp. Các trận đấu kéo dài từ tháng Tư đến tháng Sáu. Trận đấu đầu tiên giữa đội các ngôi sao thành Viên. Peñarol thua trận với tỉ số 1-3. Đội sau đó đã thi đấu với Bayern Munich (thua 1-2), SpVgg (thua 1-2), Hertha Berlin (thua 0-1). Chiến thắng đầu tiên của chuyến du đấu là trận đấu với đội Eintracht Frankfurt (thắng3-1). Đội hình cho trận đấu đó gồm có các cầu thủ Luis Biscardi, Demis D'Agosto, José Benincasa, Pascual Ruotta, Gildeón Silva, Antonio Aguerre, Ladislao Pérez, Antonio Sacco, Pablo Terevinto, Peregrín Anselmo, Antonio Campolo. Chuyến du đấu tiếp tục ở Thụy Sĩ, với đội Young Fellows (thắng 1-0), độiRapid Vienna từ Áo (thua 0-5), và với đội Sparta Prague từ Tiệp Khắc (thua 0-1).
Vào ngày 5 tháng 6, Peñarol đã thi đấu trận đầu tiên ở Tây Ban Nha với đội FC Barcelona, thua 1-5. Trận đấu thứ hai, diễn ra một ngày sau đó, kết thúc với tỉ số hòa (1-1). Các trận đấu đáng chú ý khác của chuyến du đấu là hai trận đấu với Atlético Madrid (thắng 5-2 và 4-3).
Peñarol đã chơi tổng cộng 19 trận trong 80 ngày (6 ở Tây Ban Nha, 5 ở Đức, 4 ở Thụy Sĩ và 1 ở Tiệp Khắc và Pháp), tổng cộng 7 trận thắng, 4 trận hòa và 8 trận thua. Đội bóng đã ghi được 32 bàn thắng và nhận 33 bàn thua, trong đó Antonio Sacco là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất với 9 bàn thắng.[18]
Sau chuyến lưu diễn châu Âu đầu tiên vào năm 1927, Peñarol đã giành chức vô địch quốc gia Uruguay vào năm 1928 và 1929. Vào năm 1930, câu lạc bộ đã đánh bại Olimpia với tỉ số 1-0 trong trận đấu đầu tiên tại sân vận động Centenario ở thủ đô Montevideo, nơi diễn ra vòng chung kết World Cup 1930 vào mùa hè cùng năm.
Thập niên 1930-50
sửaNăm 1932, Peñarol và đội River Plate đã chơi trận đấu đầu tiên của kỷ nguyên bóng đá chuyên nghiệp. Peñarol đã giành chức vô địch chuyên nghiệp đầu tiên của Uruguay với 40 điểm, nhiều hơn năm điểm so với Rampla Junenson.[19] Sau khi xếp thứ hai vào năm 1933 và 1934, câu lạc bộ đã giành được bốn chức vô địch liên tiếp từ 1935 đến 1938.
Năm 1944, khi Peñarol một lần nữa giành chức vô địch Uruguay khi đánh bại Nacional trong loạt 2 trận chung kết với tỉ số 0-0 và 3-2).[20] Năm 1945, câu lạc bộ bảo vệ thành công danh hiệu, với Nicolás Falero và Raúl Schiaffino là những cầu thủ ghi bàn hàng đầu với 21 bàn.[21] Peñarol một lần nữa vô địch vào năm 1949, bốn điểm trước á quân Nacional. Óscar Míguez là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất.[22]
Sau khi xếp thứ hai vào năm 1950, Peñarol đã giành chức vô địch Uruguay vào năm sau đó.[23]. Trong những năm 1950, câu lạc bộ cũng giành được giải vô địch quốc gia vào năm 1953,[24] 1954,[25] 1958 [26] và 1959.[27]
Thành công trên đấu trường quốc tế
sửaChức vô địch năm 1959 giúp Peñarol được thi đấu tại mùa giải Copa Libertadores đầu tiên (lúc này có tên gọi là Copa de Campeones de América - cúp vô địch châu Mỹ- mặc dù chỉ có các đội bóng Nam Mỹ tham dự). Peñarol đã giành chức vô địch của hai mùa đầu tiên, đánh bại Olimpia của Paraguay vào năm 1960 [28] và Palmeiras của Brasil vào năm 1961 ở hai trận chung kết.[29] Năm 1961, câu lạc bộ cũng đã đồng thời giành được Cúp Liên lục địa đầu tiên, đánh bại Benfica của Bồ Đào Nha qua ba lượt trận (lúc này giải thi đấu theo thể thức đá ba trận, ai thắng hai trận trước đội đó thắng).[30] Peñarol giành thêm ba chức vô địch quốc nội (1960, 1961 và 1962), nối dài mạch năm chức vô địch liên tiếp (1958-61).
Sau một mùa không dành danh hiệu vào năm 1963, Peñarol đã giành chức vô địch Uruguay vào năm 1964 và năm 1965 và vô địch Copa Libertadores vào năm 1966, đánh bại River Plate 4-2.[31] Năm đó, câu lạc bộ đã giành được Cúp Liên lục địa thứ hai, đánh bại Real Madrid 2 lần tại sân vận động Centenario và Santiago Bernabéu.[32]
Trong vài năm tiếp theo, câu lạc bộ đã vô địch quốc gia vào năm 1967 và năm 1968 và giành chiếc Siêu cúp Liên lục địa năm 1969 (một giải đấu chỉ được tổ chức 2 lần trong lịch sử, quy tụ các nhà vô địch Cúp liên lục địa từ Nam Mỹ). Peñarol cũng nắm giữ mạch bất bại dài nhất trong lịch sử Uruguay với 56 trận kéo dài từ ngày 3 tháng 9 năm 1966 đến ngày 14 tháng 9 năm 1968.[33] Cầu thủ ghi bàn hàng đầu tại giải Copa Libertadores, Alberto Spencer là một ngôi sao của câu lạc bộ ở thời điểm này.
Năm 1970, câu lạc bộ một lần nữa lọt vào trận chung kết Copa Libertadores, và để thua trước Estudiantes de La Plata. Câu lạc bộ đồng thời lập kỷ lục giải đấu về trận thắng cách biệt lớn nhất giải đấu, đánh bại Valencia của Venezuela 11-2. Với Fernando Morena là ngôi sao của đội, câu lạc bộ đã giành chức vô địch của Uruguay trong ba năm liên tiếp, từ năm 1973 đến 1975. Sau khi về nhì vào các năm 1976 và 1977, Peñarol vô địch một cách thuyết phục vào năm 1978. Năm đó, Morena lập hai kỷ lục: nhiều bàn thắng trong một mùa giải của Uruguay (36) [34] và ghi nhiều bàn thắng nhất trong một trận đấu (7, trong trận đấu với Huracán Buceo vào ngày 16 tháng 7).[35] Thập niên 1970 kết thúc với chức vô địch mùa 1979. Morena là cầu thủ vua phá lứoi giải Uruguay sáu lần liên tiếp, và là vua phá lứoi Copa Libertadores vào năm 1974 và 1975.
Sau khi bắt đầu thập niên 1980 với vị trí thứ ba vào năm 1981, Peñarol đã giành chức vô địch Uruguay với bộ đôi Fernando Morena và Rubén Paz (vua phá lưới của giải đấu). Mùa giải tiếp theo, câu lạc bộ một lần nữa giành được Copa Libertadores, đánh bại Cobreloa của Chile 1- 0 với bàn thắng của Fernando Morena [36] (vua phá lưới của giải đấu với bảy bàn thắng) trong những phút cuối cùng của trận đấu. Cuối năm đó, câu lạc bộ đã giành thêm một chức vô địch Uruguay và Cúp Liên lục địa thứ ba, đánh bại nhà vô địch châu ÂuAston Villa 2-0.[37]
Mặc dù có những vấn đề tài chính trong những năm 1980, Peñarol đã giành chức vô địch quốc gia vào năm 1985 và 1986, và Copa Libertadores lần thứ năm vào năm 1987 sau khii América de Cali 1-0 với bàn thắng của Diego Aguirre ở những giây cuối cùng của hiệp phụ. Nếu trận đấu vẫn hòa ở hiệp phụ thì Amériicca de Cali sẽ vô địch [38]
Peñarol đã tổ chức kỷ niệm một trăm năm thành lập vào năm 1991, mặc dù cũng có một số tranh cãi từ cổ động viên đội kình địch Nacional về năm thật mà đội thành lập (1913, xem phần ở trên).
Với cựu binh Pablo Bengoechea và cầu thủ trẻ Antonio Pacheco và Gregorio Pérez trong đội, Peñarol một lần nữa giành 5 chức vô địch Uruguay liên tiệp (1993-1997).[39] Câu lạc bộ cũng lọt vào 2 trận chung kết cúp Copa Conmebol vào năm 1994 và 1995 (nhưng không vô địch), kết thúc thế kỷ với chức vô địch quốc gia năm 1999 (đánh bại Nacional 2-1 trong trận chung kết, bất chấp việc ngôi sao Julio Ribas ở trên băng ghế dự bị).
Năm sau đó, Peñarol lại để thua trận chung kết vô địch Uruguay trước Nacional; nhiều cầu thủ của đội đã bị bắt do bạo lực trong trận.[40] Peñarol đã giành chức vô địch quốc gia một lần nữa vào năm 2003 với ngôi sao Diego Aguirre, đánh bại chính Nacional trong trận chung kết. Câu lạc bộ đã không giành được một danh hiệu quốc gia nào khác cho đến mùa giải 2009-10, khi họ thắng giải Clausura với 14 chiến thắng sau 15 trận (12 trong số đó diễn ra liên tiếp). Trong trận chung kết, Peñarol đã đánh bại Nacional 2-1. Năm 2011,Peñarol lọt vào trận chung kết Copa Libertadores với Santos nhưng để thua 1-2 sau 2 lượt trận.[41]
Các chủ tịch Joseph Blatter, Michel Platini.[42] và Nicolás Leoz đã gửi thư mừng cho câu lạc bộ nhân kỉ niệm 120 năm thành lập vào tháng 9 năm 2011.[43]
Biểu tượng truyền thống
sửaĐồng phục
sửaKể từ khi thành lập, màu sắc chủ đạo của Peñarol là màu vàng và đen. Chúng được lấy cảm hứng từ đầu máy tên lửa do George Stephenson thiết kế, đã giành được một giải thưởng về thiết kế vào năm 1829.[8]
Chiếc áo đầu tiên là một chiếc áo sơ mi trơn, được chia thành bốn phần hình vuông xen kẽ màu đen và màu vàng.[44] Một biến thể có hai nửa dọc (màu đen ở bên phải và sọc đen và vàng ở bên trái), với quần short và vớ màu đen. Áo chính thức của Peñarol (sọc đen và vàng) có từ năm 1911 [45] và đã được sử dụng gần như liên tục, chỉ với những thay đổi nhỏ.[46]
Thông tin bên lề
sửaPeñarol đã truyền cảm hứng cho câu lạc bộ Rumani, FC Brașov khi họ thay đổi màu sắc chính thức vào tháng 12 năm 1966 từ trắng và xanh sang vàng và đen. Sự thay đổi diễn ra sau khi đội bóng đá Olympic quốc gia Romania tham dự một giải đấu ở Uruguay. Sau trận đấu với Peñarol, Csaba Gyorffy, cầu thủ của FC Brașov, đã nhận được từ đội trưởng của Peñarol, Alberto Spencer, chiếc áo Alberto sử dụng trong trận. Gyorffy thấy hứng thú với thiết kế sọc vàng và đen và quyết định khi trở về nước sẽ mặc áo trên trong các buổi tập của anh ấy với đội. Quyết định thay đổi màu sắc của câu lạc bộ được đưa ra bởi huấn luyện viên Silviu Ploeşteanu, người cho rằng, trong màu sắc mới, đội sẽ được nhìn thấy tốt hơn trên sân màu xanh lá. Kể từ tháng 1 năm 1967, đội bóng đến từ thành phố Brașov lấy màu vàng-đen làm màu chính thức.[47]
Tại trợ áo đấu
sửaGiai đoạn | Công ty |
---|---|
1979-84 | liên_kết=|viền Adidas |
1984-87 | liên_kết=|viền Le Coq Sportif |
1987-88 | liên_kết=|viền Topper |
1988-91 | liên_kết=|viền Puma |
1991-96 | liên_kết=|viền Nanque |
1996-98 | liên_kết=|viền Umbro |
1998-98 | liên_kết=|viền Reebok |
2000 | liên_kết=|viền Covadonga |
2001-06 | liên_kết=|viền Umbro |
Hiện tại 2006 | liên_kết=|viền Puma |
Cơ sở vật chất
sửaSân vận động đầu tiên thuộc đội Peñarol có tên là Jose Pedro Damiani, còn được gọi là Las Acacias. Sân được mua vào năm 1913 và khánh thành vào ngày 19 tháng 4 năm 1916 với chiến thắng 3 trận1 trước Nacional.[48] Đội sau đó chuyển qua sân vận động gần đó, Estadio Pocitos, nơi bàn thắng đầu tiên trong lịch sử FIFA World Cup được ghi vào năm 1930 trong trận đấu giữa Pháp và Mexico.[49]
Sân vận động nằm trong khu phố Marconi của thủ đô Montevideo. Sân rộng gần 38,000 mét vuông, và nó có sức chứa 12.000.[48] Bởi vì Peñarol không được phép chơi tại sân trên do những lo ngại về an ninh vào thập niên 1930,[50] đội phải thuê tạm sân của thành phố, Estadio Centenario.[51]
Las Acacias đã đóng vai trò là sân nhà cho tất cả các Đội trẻ của Peñarol.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 2012, câu lạc bộ đã đề xuất một sân vận động có sức chứa 40.000 người ở ngoại ô thủ đô Montevideo, khoảng 7 kilômét (4,3 mi) từ sân bay Aeropuerto Internacional de Carrasco.[52] Tên của sân vận động mới nhất của họ là Campeón del Siglo (CDS), khai trương vào tháng 3 năm 2016 và là sân nhà cho đến nay.
Palacio Peñarol
sửaPalacio Peñarol, ở trung tâm thành phố Montevideo, là trụ sở và câu lạc bộ và là nơi thi đấu của đội bóng rổ Peñarol. Nó được khai trương vào ngày 21 tháng 6 năm 1955;[53] Palacio rộng 3.896 mét vuông (41.940 foot vuông) ngoài bóng rổ, đây còn là bảo tàng và là văn phòng của câu lạc bộ.[54] Sau khi sân Cilindro bị hỏa hoạn vào tháng 10 năm 2010, Palacio Peñarol đã trở thành sân bóng rổ chính thức của Uruguay.
Complejo Deportivo Washington Cataldi
sửaComplejo Deportivo Washington Cataldi, thường được gọi là Los Aromos, là nơi huấn luyện của đội chính xây vào năm 1945.[55]
Trường Frank Henderson
sửaTrường Frank Henderson, được đặt tên để vinh danh chủ tịch đầu tiên của câu lạc bộ. Nó được xây dựng để phát triển các cầu thủ trẻ của câu lạc bộ.[56]
Cổ động viên
sửaỞ Uruguay, Peñarol và Nacional là hai đội lớn nhất và vượt xa các đội còn lại. Nhiều cuộc khảo sát về dư luận đã được tiến hành, nhưng chưa có kết luận nào về việc đội nào có nhiều cổ động viên hơn. Năm 1993, công ty tư vấn Factum đã báo cáo rằng Peñarol là đội bóng yêu thích của 41% người hâm mộ bóng đá, trong khi 38% ủng hộ Nacional.[10] Factum đã thực hiện một cuộc khảo sát khác vào năm 2006, xác nhận kết quả trước đó: Peñarol với 45% và Nacional với 35%.[57]
Công ty Tư vấn MPC đã khảo sát 9.000 người Uruguay thấy có Peñarol có 45% ủng hộ và Nacional 38%. Một cuộc khảo sát trực tuyến trên trang web Sportsvs.com cho thấy kết quả ngược lại Nacional với 50,35% và Peñarol với 49,45%.[58]
Kể từ khi thành lập, barra brava (các động viên cuồng nhiệt) của đội Penarol đã dính líu đến bạo lực với các câu lạc bộ khác và với cảnh sát Uruguay. Các sự cố liên quan đến cổ động viên đã khiến Peñarol mất 31 điểm kể từ năm 1994; việc trừ điểm đã khiến đội mất trực tiếp 3 chức vô địch (Apertura 1994,[59] Clausura 1997 [60] và Clausura 2002).[61]
Kình địch
sửaTrận derby của Uruguay giữa Peñarol và Nacional bắt đầu từ năm 1900, và là derby lâu đời nhất bên ngoài Quần đảo Anh.[62] Trận đấu đầu tiên giữa Nacional và CURCC là vào ngày 15 tháng 7 năm 1900 và kết thúc 2-0 với chiến thắng của CURCC. Ban đầu, CURCC dẫn trước về thành tích, nhưng Nacional đã bắt kịp vào cuối những năm 1910. Nacional đã dẫn xa với 14 trận thắng trong các lựot derby từ năm 1948 tới thập niên 1970. Kể từ đó, Peñarol lấy lại vị thế với 26 lần thắng đến tháng 1 năm 2004.[63] Bao gồm các thời đại bóng đá nghiệp dư và chuyên nghiệp, các giải đấu và các trận giao hữu từ năm 1900 đến nay, các đội đã gặp nhau 511 lần trong quá khứ với 182 chiến thắng thuộc về Peñarol, 166 chiến thắng thuộc về Nacional và 163 trận hòa.
Peñarol và Nacional đã đối đầu với nhau trong 13 trận chung kết của Giải vô địch Uruguay, với Peñarol thắng tám. Lần gần đây nhất là vào năm 2018, khi Peñarol giành chức vô địch với chiến thắng 2-1.[63]
Manyas: Movie
sửaĐầu tháng 10 năm 2011 Manyas: The Movie, một bộ phim tài liệu về người hâm mộ của Peñarol, đã được phát hành tại Uruguay. Được sản xuất bởi hãng Kafka Films và Sacromonte, đạo diễn bởi Andrés Benvenuto, bộ phim phỏng vấn người hâm mộ, nhà báo bóng đá, nhà tâm lý học và chính trị gia về lịch sử đội.[64]. Bộ phim đã có buổi ra mắt thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Uruguay,[65] bán được 13.000 vé trong cuối tuần đầu tiên [66] và 30.000 trong mười lăm ngày đầu tiên.[67]
Lá cờ lớn nhất thế giới
sửaSau khi quyên góp được 35.000 đô la, vào ngày 12 tháng 4 năm 2011, người hâm mộ Peñarol đã cho ra mắt lá cờ lớn nhất từng được treo trong một sân vận động. Lá cờ của Peñarol dài 309 mét (1.014 ft) rộng 46 mét (151 ft) với diện tịch 14.124 mét vuông (152.030 foot vuông).[68] Vào năm 2013, kình địch Nacional sau đó ra mắt một lá cờ to hơn, bao phủ ba khán đài của sân vận động, lá cờ dài 600 mét, rộng 50 mét. Đây là lá cờ lớn nhất thế giới.
Cầu thủ
sửaĐội hình đội một
sửa- Tính đến 30 tháng 8 năm 2021
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Cầu thủ đáng chú ý
sửaNéstor Gonçalves có nhiều trận đấu chính thức nhất trong lịch sử câu lạc bộ (571 trận đấu), từ 28 tháng 4 năm 1957 đến 28 tháng 11 năm 1970. Những cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của đội tại giải vô địch quốc gia là Fernando Morena (203), Alberto Spencer (113) và Óscar Míguez (107). Morena (với 203 với Peñarol và 27 bàn với River Plate) là cầu thủ ghi nhiêu bàn nhất giải đấu.
Peñarol đã đóng góp nhiều cầu thủ cho đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay. Ba cầu thủ Peñarol đã ở trong đội tuyển Uruguay trong trân đấu Argentina năm 1905.[69] Năm cầu thủ Peñarol có mặt trong đội hình của đội tuyển Uruguay đã vô địch FIFA World Cup 1930: thủ môn Miguel Capuccini, hậu vệ Peregrino Anselmo và các tiền vệ Lorenzo Fernández, Álvaro Gestido và Carlos Riolfo.[70] Peñarol đóng góp chín người cho đội tuyển Uruguay đã giành giải bóng đá vô địch thế giới 1950: thủ môn Roque Máspoli, hậu vệ Juan Carlos González và Washington Ortuño, tiền vệ Juan Alberto Schiaffino và Obdulio Varela và tiền đạo Ernesto Vidal, Julio César Britos, Óscar Miguez và Alcides Ghiggia. Schiaffino và Ghiggia đã ghi hai bàn thắng của đội trên sân Maracanazo, trong trận đấu quyết định với Brazil.[71] Peñarol là câu lạc bộ duy nhất đóng góp ít nhất một cầu thủ cho đội tuyển quốc gia ở tất cả các kì World Cup mà đội tuyển Uruguay tham dự.[72]
Huấn luyện viên
sửa- Leonardo de Luca (1932–34)
- José Piendibene (1934)
- Athuel Velásquez (1935–40)
- José Piendibene (1940–41)
- Leonardo de Luca (1941)
- Luis Manuel Morquio (1941)
- Lorenzo Fernández (1941–42)
- John Harley (1942)
- Leonardo de Luca (1942–43)
- Juan Pedro Arremón (1943)
- Pedro de Hegedüs (1943)
- Aníbal Tejada (1944)
- Alberto Suppici (1945)
- Aníbal Tejada (1946)
- Jorge Clulow (1947)
- Randolph Galloway (1948)
- Emérico Hirschl (1949–51)
- Juan López (1952–55)
- Roque Máspoli and Obdulio Varela (1955–55)
- Emérico Hirschl (1956)
- Gerardo Spósito (1957)
- Hugo Bagnulo (1958–59)
- Roberto Scarone (1959–61)
- Béla Guttmann (1962)
- Pelegrín Anselmo (1962)
- Roque Máspoli (1963–67)
- Rafael Milans (1968–69)
- Osvaldo Brandão (1969–70)
- Roque Máspoli (1970–71)
- Juan Eduardo Hohberg (1971)
- Ondino Viera (1972)
- Juan Ricardo Faccio (1972–73)
- Hugo Bagnulo (1973–74)
- José María Rodríguez (1974)
- Hugo Bagnulo (1974–75)
- Juan Alberto Schiaffino (1975–76)
- Roque Máspoli (1976)
- Dino Sani (1977–80)
- Mario Tuane (1980)
- Luis Prais (1980)
- José Etchegoyen (1980)
- Jorge Kistenmacher (1980)
- Alcides Ghiggia (1980)
- Luis Cubilla (1981)
- Hugo Bagnulo (1982–83)
- Osvaldo Balseiro (1983)
- Hugo Fernández (1984)
- César Luis Menotti (1984–85)
- Roque Máspoli (1985–86)
- Ramón Silva (1986)
- Óscar Tabárez (1987)
- Fernando Morena (1988)
- Roque Máspoli (1988)
- Ladislao Mazurkiewicz (1988–89)
- Walter Roque (1989)
- Roberto Fleitas (1989–90)
- César Luis Menotti (1990–91)
- Juan Duarte (1991)
- Ricardo "Tato" Ortiz (1991–92)
- Ljupko Petrović (1992)
- Roque Máspoli (1992)
- Walter Olivera (1992)
- Juan Ricardo Faccio (1992)
- Gregorio Pérez (1993–95)
- Jorge Fossati (1996)
- Alejandro Botello (1996)
- Gregorio Pérez (1997–98)
- Julio Ribas (1999–01)
- Gregorio Pérez (2002)
- Diego Aguirre (2003–05)
- Fernando Morena (2005)
- Luis Garisto (2006)
- Mario Saralegui (ngày 24 tháng 4 năm 2006 – ngày 30 tháng 6 năm 2006)
- Gregorio Pérez (ngày 15 tháng 7 năm 2006 – ngày 30 tháng 6 năm 2007)
- Gustavo Matosas (2007)
- Mario Saralegui (ngày 11 tháng 3 năm 2008 – ngày 19 tháng 1 năm 2009)
- Julio Ribas (ngày 20 tháng 1 năm 2009 – ngày 14 tháng 9 năm 2009)
- Víctor Púa (ngày 14 tháng 9 năm 2009 – ngày 14 tháng 12 năm 2009)
- Diego Aguirre (ngày 7 tháng 12 năm 2009 – ngày 6 tháng 6 năm 2010)
- Manuel Keosseian (ngày 1 tháng 7 năm 2010 – ngày 23 tháng 11 năm 2010)
- Edison Machín (2010)
- Diego Aguirre (ngày 7 tháng 12 năm 2010 – ngày 6 tháng 9 năm 2011)
- Gregorio Pérez (ngày 6 tháng 9 năm 2011 – ngày 27 tháng 2 năm 2012)
- Jorge Gonçalves (ngày 27 tháng 2 năm 2012 – ngày 1 tháng 3 năm 2012)
- Jorge da Silva (ngày 1 tháng 3 năm 2012 – ngày 30 tháng 6 năm 2013)
- Diego Alonso (ngày 19 tháng 6 năm 2013 – ngày 6 tháng 10 năm 2013)
- Jorge Gonçalves (ngày 7 tháng 10 năm 2013 – ngày 28 tháng 1 năm 2014)
- Jorge Fossati (ngày 28 tháng 1 năm 2014–14)
- Paolo Montero (2014–15)
- Pablo Bengoechea (2015–16)
- Jorge da Silva (2016–October 2016)
- Fernando Curutchet (October 2016-December 2016)
- Leonardo Ramos (December 2016 - June 2018)
- Diego López (June 2018 – December 2019)
- Diego Forlán (January 2020 – Present)
Ban huấn luyện hiện tại
sửa- HLV: Diego Forlán
- Trợ lý huấn luyện viên: Pablo Forlán
- Trợ lý kĩ thuật: Eduardo Del Capellán
- Huấn luyện viên thủ môn: Óscar Ferro
- Huấn luyện viên thể hình: Alejandro Valenzuela
- Trợ lý huấn luyện viên thể hình: Sebastián Roquero
- Trưởng bộ phận y tế: Edgardo Rienzi
- Bác sĩ của đội Horacio Deccia
- Y tá: Miguel Domínguez, Fernando Robaina
- Bác sĩ thể hình: Marcos Sosa, Mauricio Velázquez
- Trang bị: Miguel Santos, Germán Pellejero
Quản trị
sửaChủ tịch
sửa- 1891–99: Frank Henderson
- 1899–05: Frank Hudson
- 1906–08: Roland C.J. Moor
- 1909–13: Percy Sedgfield
- 1914–15: Jorge H. Clulow
- 1916–17: Francisco Simón
- 1918: Félix Polleri
- 1919: César Batlle Pacheco
- 1920: Félix Polleri
- 1921–28: Julio María Sosa
- 1929: Arturo Abella
- 1930–31: Luis Giorgi
- 1932: Juan Antonio Scasso
- 1933–34: Alberto Demicheli
- 1934: Pedro Viapina
- 1935–36: Luis Giorgi
- 1937: Francisco Tochetti
- 1938: Alberto Mantrana Garín
- 1939: Eduardo Alliaume
- 1940: Francisco Tochetti
- 1941–42: Bolívar Baliñas
- 1942: Álvaro Macedo
- 1943: Armando Lerma
- 1944–48: Constante Turturiello
- 1949–51: Eduardo Alliaume
- 1952–55: José Buzzetti
- 1956: Raúl Previtali
- 1957: Eduardo Alliaume
- 1958–72: Gastón Guelfi
- 1973–84: Washington Cataldi
- 1985–86: Carlos José Lecueder
- 1987–90: José Pedro Damiani
- 1991–92: Washington Cataldi
- 1993–07: José Pedro Damiani
- 2008–2017: Juan Pedro Damiani
- 2017-: Jorge Barrera [73]
Honorary
- 1929: Julio María Sosa
- 1938: Francisco Tochetti
- 1949: Constante Turturiello
- 1953: Mantrana Garin
- 1953: Carlos Balsán
- 1961: Gastón Guelfi
- 1978: Washington Cataldi
- 1991: José Pedro Damiani[note 2]
- Julio María Sanguinetti
Thành viên hội đồng
sửaChức vụ | Tên |
---|---|
Chủ tịch | Bác sĩ Jorge Barrera |
Phó Chủ tịch | Rodolfo Catino |
Tổng thư ký | Sơ Evaristo González |
Thủ quỹ | Ec. Isaac Alfie |
Kế toán danh dự | Juan Fernández Methol |
Điều phối viên | Fernando Morena |
Chủ tịch danh dự | Julio Luis Sanguinetti |
Daniel Viñas | |
Isaac Alfie | |
Carlos Scherchener | |
Quản lý thể thao | Carlos Sánchez [74] |
Giám đốc tiếp thị | Pablo Nieto [75] |
Giám đốc kỹ thuật | Álvaro Alonso |
Thống kê
sửaPeñarol đã chơi 26 trên 31 mùa giải từ năm 1900 đến năm 1931 (vắng mặt 1923-26, khi câu lạc bộ bị tách khỏi AUF).[76] Trong thời gian này, Peñarol đã vô địch Uruguay chín lần, với những xuất sắc nhất là năm 1900 và 1905 [77] (khi câu lạc bộ giành chức vô địch với số điểm tuyệt đối). Peñarol đã bất bại vào năm 1901,[78] 1903 [79] và 1907.[note 3][80] Năm tồi tệ nhất của đội là năm 1908; đội rời giải đấu sau mười trận, bỏ tám trận còn lại.[81] Trận thắng đậm nhất là vào năm 1903, khi họ đánh bại Triunfo 12-0.[82]
Câu lạc bộ đứng thứ hai vào năm 1923 (khi họ ghi được 100 bàn thắng), và giành chiến thắng vào năm 1924; chiến thắng ấn tượng nhất đội là trận 10-0 trước Roberto Cherry trong mùa giải 1925.[82]
Kể từ khi bắt đầu kỷ nguyên chuyên nghiệp vào năm 1932, Peñarol và Nacional là những đội duy nhất đã chơi tất cả các mùa ở giải vô địch quốc gia (tức chưa bao giờ xuống hạng).[note 4][83] Peñarol có nhiều danh hiệu chuyên nghiệp quốc gia Uruguay nhất (38 lần từ năm 1932 đến 2013) và số lần vô địch bất bại nhiều nhất (1949, 1954, 1964, 1967, 1968, 1975 và 1978).[84] Màn trình diễn tốt nhất của nó là vào năm 1949 và 1964, mùa mà đội đạt 94% số điểm có thể; mùa giải tồi tệ nhất của đội là 2005-06, khi đội chỉ giành được 32 phần trăm tổng số điểm, cộng với [85] 12 điểm trừ do hành vị của cổ động viên đẩy đội xuống vị trí số 16.[86]
Chiến thắng đậm nhất của Peñarol là trận thắng 9-0 trước Rampla Junenson năm 1962; thất bại đậm nhất của đội là trận thua 0-6 trước kình địch Nacional. Trên trường quốc tế, kết quả tốt nhất của đội là chiến thắng 11-2 trước Valencia của Venezuela vào ngày 15 tháng 3 năm 1970; thất bại đậm nhất là trước Olimpia của Paraguay, thua 0-6 trong trận Supercopa Sudamericana.
Peñarol giữ một số kỉ lục quốc gia và quốc tế. Câu lạc bộ có chuỗi trận bất bại dài nhất trong giải đấu của Uruguay: 56 trận, từ ngày 3 tháng 9 năm 1966 đến ngày 14 tháng 9 năm 1968.[33] Đây cũng là giải chạy dài nhất bất bại trong bóng đá chuyên nghiệp Nam Mỹ (vị trí thứ hai nếu tính thêm các giải đấu nghiệp dư).[87]
Peñarol là câu lạc bộ đầu tiên giành được Copa Libertadores de América vào năm 1960 và cũng là nhà vô địch bất bại đầu tiên của giải. Peñarol có số lần tham dự Copa Libertadores nhiều nhất (40),[88] và tham dự nhiều trận chung kết (10, với tỉ số 5 thắng - 5 thua). Đội giữ kỉ lục tham dự cúp liên lục địa nhiều nhất với 5 lần.
Danh hiệu
sửaQuốc gia
sửa- Vô địch quốc gia (AUF) (50): 1900, 1901, 1905, 1907, 1911; [note 5] 1918, 1921, 1928, 1929, 1932, 1935, 1936, 1937, 1938, 1944, 1945, 1949, 1951, 1953, 1954, 1958, 1959, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1967, 1968, 1973, 1974, 1975, 1978, 1979, 1981, 1982, 1985, 1986, 1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 1999, 2003, 2009-10, 2012-13, 2015-16, 2017, 2018
- Vô địch quốc gia (FUF / CP) (2): 1924 <small id="mwA6c">FUF</small>, 1926 <small id="mwA6k">CP</small>
- Supercopa Uruguay (1): 2018
Quốc tế
sửa- Cúp liên lục địa (3): 1961, 1966, 1982 [7]
- Copa Libertadores (5): 1960, 1961, 1966, 1982, 1987 [6]
- Siêu cúp liên lục địa (1): 1969 [91]
- Copa de Honor Cousenier (AFA / AUF) [note 6] (3): 1909, 1911, [note 5] 1918 [92]
- Tie Cup (AFA / AUF) (1): 1916 [93]
- Copa Aldao (AFA / AUF) (1): 1928 [94]
Giao hữu quốc tế
sửaCâu lạc bộ thế kỷ của Nam Mỹ
sửaNăm 2009, Hiệp hội Lịch sử & Thống kê Bóng đá Quốc tế đã công bố danh sách các câu lạc bộ tốt nhất của thế kỷ 20 tại mỗi lục địa. Tổ chức này chấm điểm bằng cách cho điểm cho mỗi chiến thắng trong một trận vòng tứ kết hoặc sâu hơn trong giải đấu quốc tế.. Peñarol được ghi nhận là đội bóng số một ở Nam Mỹ, xếp trên cả Independiente của Argentina và kình địch Nacional.
Cấp | Đội | Quốc gia | Điểm |
---|---|---|---|
1 | Peñarol | Uruguay | 531 |
2 | Independiente | Argentina | 426,5 |
3 | Nacional | Uruguay | 414 |
4 | River Plate | Argentina | 404.25 |
5 | Olimpia | Paraguay | 337 |
6 | Boca Juniors | Argentina | 312 |
7 | Cruzeiro | Brazil | 295,5 |
8 | Sao Paulo | Brazil | 242 |
9 | América de Cali | Colombia | 220 |
10 | Palmeiras | Brazil | 213 |
Các môn thể thao khác
sửaBóng rổ
sửaĐọi bóng rổ được thành lập năm 1920 và đã được chức vô địch Uruguay các năm 1952, 1973, 1978, 1979, và năm 1982. Hiện đội thi đấu tại giải bóng rổ hạng 3 Uruguay
Đạp xe
sửaPeñarol đã tham gia giải Vuelta Ciclista del Uruguay (Giải đua vòng quanh Uruguay) kể từ mùa đầu 1939. Mặc dù đội đua đã thi đấu tốt trong những năm đầu tiên, nhưng mãi đến mùa thứ chín (năm 1952), một tay đua xDe đạp Peñarol mới giành chiến thắng trong cuộc đua (Dante Sudatti, với thời gian tổng thể là 48 giờ, 38 phút và 38 giây). Đội vô địch thêm vào các năm 1953, 1956, 1959, 1964, 1990 và 1991; cũng như ba chức vô địch liên tiếp 1989-91. Tay đua nổi tiếng nhất là José María Orlando, vô địch toàn Mỹ năm 1990.
Futsal
sửaPeñarol bắt đầu chơi futsal vào năm 1968. Trong hai thập kỷ đầu tiên, câu lạc bộ đã giành chiến thắng ở cấp quốc gia và quốc tế (bao gồm cả một chiến thắng trong Giải vô địch câu lạc bộ thế giới năm 1987). Đội đã giành được ba chức vô địch đầu tiên của Uruguay (1995, 1996 và 1997), vô địch tiếp vào năm 1999 và 2004 và ba lần liên tiếp vào năm 2010, 2011 và 2012.[96]
Bóng đá bãi biển
sửaVào tháng 1 năm 2013, Peñarol đã khánh đội bóng đá bãi biển.[97] Diego Monserrat, thủ môn của đội tuyển quốc gia Uruguay trong nhiều năm, là huấn luyện viên đầu tiên của đội, trong khi thủ môn Felipe Fernández là đội trưởng đầu tiên của đội.
Bóng bầu dục
sửaPeñarol đã thông báo rằng họ sẽ thành lập đội bóng bầu dục để tham gia giải đấu mới Superliga Americana de Rugby, giải quy tụ các đội rugby ở Nam Mỹ sẽ bắt đầu vào tháng 2 năm 2020.[98] Peñarol Rugby sẽ là đại diện duy nhất của Uruguay tại giải.[99][100]
Ghi chú
sửa- ^ Controversy exists on the date of the founding of C.A. Peñarol. The club's official position assumes a change of name of CURCC (founded on September 28, 1891). On the other hand, some historians state that "C.A. Peñarol" was established on December 13, 1913.[1]
- ^ Year denotes receipt of award
- ^ Moreover, in 1903 CURCC did not lose during the regular season, but lost the tiebreaker final against Nacional 2–3.
- ^ In 1948 the tournament was cancelled because of a player strike.
- ^ a b Titles won by the CURCC. With FIFA [89] and CONMEBOL[90] recognising Peñarol as CURCC's continuity, the club included those championship in their list of honours. On the other side, some historians say that football became active in CURCC until its dissolution in 1913 so Peñarol was a different institution.[1]
- ^ Established before CONMEBOL was created, this Cup was organized by the Argentine và Uruguayan Associations, between teams that belonged to them.
- ^ Fourth oldest club cup, organized by the Indian Association and played between Indian clubs and other invited ones.
Chú thích
sửa- ^ a b Discusiones por el decanato on Fútbol.uy, 29 Sep 2009
- ^ a b Ana Pais (2008). “Convierten a Peñarol en "museo vivo" con 3 millones de euros”. El País (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Campeonato de Primera División”. urubasket.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2008. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2009.
- ^ “62nd Vuelta Ciclista al Uruguay”. Cyclingnews.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2005. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
- ^ a b “El Club del Siglo de América del Sur”. IFFHS. 2009. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b Karel Stokkermans (2010). “Copa Libertadores de América”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b Loris Magnani; Karel Stokkermans (2005). “Intercontinental Club Cup”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b “110 Años del Club Atlético Peñarol”. Administración Nacional de Correos (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2001. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2010.
- ^ “... Y llegó a los 120”. urugol.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 28 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2012.
- ^ a b Juan Carlos Luzuriaga (2005). “La forja de la rivalidad clásica: Nacional-Peñarol en el Montevideo del 900”. EF deportes (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
- ^ a b Edgardo de Léon; Walter Zunino (2008). “Uruguay – 1900 season”. IFFHS. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010.
- ^ Juan Carlos Luzuriaga (2008). “Albion Football Club: profetas del sport en Uruguay”. EF Deportes (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010.
- ^ Ana Ribeiro; Raúl Cheda; Silvia Sosa; José Carlos Tuñas; Alejandra Carnejo; Malte Fernández; Leonardo Haberkom (2008). “Barrio Peñarol – Patrimonio industrial ferroviario” (PDF). Intendencia Municipal de Montevideo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010.
- ^ Álvarez, Luciano (2010). Historia de Peñarol (bằng tiếng Tây Ban Nha). Montevideo: Aguilar. tr. 965.
- ^ “Un estadio que lleva su nombre”. La República (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 26 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Club Atlético Peñarol: Historial del Club”. Futbolea.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Tres equipos amateurs ganaron todos los puntos”. La República (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 11 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
- ^ "Rescatando la gira europea de 1927", originally published on different newspapers such as El Gráfico, Mundo Deportivo, ABC Madrid, La Vanguardia, La Esfera, Le FIgaro, Le Petit Parisien, La Tribune de Lausanne
- ^ Diego Antognazza; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1932”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1944”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1945”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1949”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1951”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1953”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1954”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2004). “Uruguay 1958”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ Diego Antognazza; Diego Cervini; Martín Tabeira (2005). “Uruguay 1959”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ John Beuker; Osvaldo Gorgazzi (2002). “Copa Libertadores de Améria 1960”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ José Luis Pierrend; John Beuker; Osvaldo Gorgazzi (2002). “Copa Libertadores de Améria 1961”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ FIFA. “Copa Intercontinental 1961” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
- ^ José Luis Pierrend; Karel Stokkermans; John Beuker (2001). “Copa Libertadores de Améria 1966”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Copa Intercontinental 1966”. FIFA (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b Diego Antognazza (2006). “Peñarol's series of 56 matches unbeaten in the Primera División Profesional”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ Martín Tabeira (ngày 28 tháng 10 năm 2010). “Uruguay – League Top Scorers”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011.
- ^ ElPais.com.uy (ngày 16 tháng 7 năm 2008). “Hoy se cumplen 30 años de los 7 goles de morena” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Aniversario de la Copa Libertadores 1982”. La República (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 1 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
- ^ FIFA. “Copa Toyota 1982” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
- ^ Karel Stokkermans (ngày 24 tháng 4 năm 2001). “Copa Libertadores de América 1987”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011.
- ^ Karel Stokkermans (2009). “Uruguay – List of Champions”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Del césped a la cárcel”. El Pais (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 12 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Santos venció a Peñarol y se coronó campeón de la Libertadores”. ESPN Deportes (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 22 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Jugar con Torres me da otro aire y facilita muchas cosas”. Unoticias.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 26 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2011.
- ^ “La Conmebol congratula a Peñarol en su 120º aniversario”. Conmebol.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 28 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2011.
- ^ “La noche inolvidable de Peñarol”. elobservador.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 28 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Camisetas”. Girasolweb.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2011.
- ^ todosobrecamisetas.net (ngày 21 tháng 1 năm 2010). “Peñarol Presenta sus Nuevas Camisetas Puma para el 2010” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Galben-negrii au fost alb-albaştri! Povestea culorilor lui FC Braşov relatată de fosta glorie a "stegarilor", Csaba Gyorffy” [The yellow-blacks were white-blue! The story of FC Braşov's colors told by the former glory of "The Flag-bearers", Csaba Gyorffy] (bằng tiếng Romania). Gsp.ro. ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2020.
- ^ a b “Estadio "Cr. José Pedro Damiani"”. peñarol.org (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ “The World Cup's 1st goal scorer”. cbc.ca. ngày 25 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Gestiones con dirigentes de Progreso”. La República (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 2 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Detalle de capacidad locativa por tribunas”. EstadioCentenario.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
- ^ estadiocap.com.uy. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2012.
- ^ “El Palacio del básquetbol”. 180.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Palacio "Cr. Gastón Güelfi"”. peñarol.org (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Los Aromos”. urugol.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
- ^ “El Colegio "Frank Henderson"”. peñarol.org (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Peñarol no es la mitad más uno”. El Observador (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Nacional ganó la encuesta de Sportsvs.com”. elobservador.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 29 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2012.
- ^ Ian King (2001). “Uruguay 1994”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
- ^ Javier Ferrando (1999). “Uruguay 1997”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
- ^ Francisco Fernández (2003). “Uruguay 2002”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Peñarol – Nacional, una rivalidad única”. FIFA (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2009.
- ^ a b Martín Tabeira (2008). “Uruguayan Derby – Peñarol vs. Nacional”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ “La hinchada de Peñarol se expresa en un documental”. ElPais.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 2 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Manyas taquilleros”. Flashes.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 10 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2011.
- ^ “"Manyas, la película" sigue imparable”. OvacionDigital.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 20 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2011.
- ^ “30.000 mil personas vieron "Manyas"”. lr21.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 21 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
- ^ “Peñarol otra vez en la cima del mundo”. OvacionDigital.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). 12 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Argentina – Uruguay 0:0 (0:0; 0:0)”. IFFHS. 2006. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2010.
- ^ Gwidon Naskrent; Roberto Di Maggio y José Luis Pierrend (2008). “World Cup Champions Squads 1930–2006”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Copa Mundial de la FIFA Brasil 1950”. FIFA. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2009.
- ^ Martín Tabeira (ngày 20 tháng 7 năm 2010). “Uruguayan Squads in the World Cup”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2012.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênlibr100
- ^ “Carlos Sánchez es el nuevo gerente deportivo”. ovaciondigital.com.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 23 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Alonso y Nieto: aumento de socios en Peñarol”. diariolarepublica.net (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 24 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.[liên kết hỏng]
- ^ “La última pelea de Nacional y Peñarol: ¿Quién tiene más campeonatos?”. El Observador (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013.
- ^ Edgardo de Léon; Walter Zunino (2008). “Uruguay – 1905 season”. IFFHS. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- ^ Edgardo de Léon; Walter Zunino (2008). “Uruguay – 1901 season”. IFFHS. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- ^ Edgardo de Léon; Walter Zunino (2008). “Uruguay – 1903 season”. IFFHS. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- ^ Edgardo de Léon; Walter Zunino (2008). “Uruguay – 1907 season”. IFFHS. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- ^ Edgardo de Léon; Walter Zunino (2008). “Uruguay – 1908 season”. IFFHS. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- ^ a b Karel Stokkermans (2008). “Double Digits Domestical”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- ^ Karel Stokkermans (2007). “Unrelegated Teams”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ Karel Stokkermans (2009). “Unbeaten during a League Season”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ Francisco Fernández (2007). “Uruguay 2005/06”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ “Peñarol pierde 12 puntos en la tabla por sanción”. ElReloj.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 29 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
- ^ Karel Stokkermans (2009). “Unbeaten in the Domestic League”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ Karel Stokkermans (2009). “Club Records in Copa Libertadores”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ ¡Felicita a Peñarol! (120th anniversary) on FIFA.com, 27 Sep 2011
- ^ Guía de clubes sudamericanos, p. 19 on CONMEBOL website
- ^ Osvaldo José Gorgazzi; José Luis Pierrend; Martín Tabeira (1999). “Supercopa 1969”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
- ^ Osvaldo José Gorgazzi (1999). “Honor Cup”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
- ^ Osvaldo José Gorgazzi (2001). “Cup Tie Competition – First Division”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
- ^ Osvaldo José Gorgazzi (2007). “Campeonato Rioplatense – Copa Dr. Ricardo C. Aldao (1913–1955)”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
- ^ Somnath Sengupta (ngày 8 tháng 3 năm 2011). “The Glorious History of IFA Shield”. The Hard Tackle. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Story – Uruguay”. Futsalplanet (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ “Peñarol jumps to the beach!”. Beach Soccer. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2013.
- ^ Superliga Sudamericana on Americas Rugby News
- ^ Ceibos, el equipo privado del millón de dólares by Sergio Stuart Olé, 28 Nov 2019
- ^ Nace la Superliga Americana, un impulso vital para el rugby regional by Alejo Miranda La Nación, 1 Dec 2019
Liên kết ngoài
sửa- Trang web chính thức (tiếng Tây Ban Nha)
- Thông tin của đội CA Peñarol Lưu trữ 2015-07-25 tại Wayback Machine tại FIFA.com