Phổ Chiếu Nhất Biện

Phổ Chiếu Nhất Biện (zh. 普照一辯, Puzhao Yibian, 1081- 1149) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời thứ 10 của Tông Tào Động. Sư là pháp tử của Thiền sư Lộc Môn Tự Giác và có đệ tử đắc pháp là Thiền sư Đại Minh Tăng Bảo.[1]

Thiền sư
phổ chiếu nhất biện
普照一辯
Tên khai sinhhọ Hoàng
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáoPhật giáo
Tông pháiThiền tông
Lưu pháiTào Động tông
Sư phụLộc Môn Tự Giác
Đệ tửĐại Minh Tăng Bảo
Thông tin cá nhân
Sinh
Thế danhhọ Hoàng
Ngày sinh1081
Nơi sinhHồng Châu
Mất 
Ngày mất1149
Nơi mấtViện Thanh Thủy, Ẩn Dương
Quốc tịchĐại Tống
 Cổng thông tin Phật giáo

Cơ duyên và hành trạng sửa

họ Hoàng, quê ở Hồng Châu (nay là Giang Tây).[2] Năm lên 11 tuổi, cha mẹ đều qua đời, sư xin xuất gia học đạo. Năm 18 tuổi, sư thọ giới cụ túc. Sau khi thọ giới, sư chuyên nghiên cứu kinh điển. Niên hiệu Trịnh Hòa (1111-1118), sư đến yết kiến Lộc Môn Tự Giác và đạt được tâm ấn.[3] Cơ duyên ngộ đạo của sư như sau:

Sư hỏi: "Hoà thượng! Hết thảy càn không chỉ bằng con mắt của học nhân là thế nào?" Lộc Môn đáp: "Ông bị kinh giáo che mắt rồi đấy!" Sư định trả lời, Lộc Môn xua tay nói: "Còn không mau làm người mù đi!" Ngay đó, sư đại ngộ.[4]

Sau khi đắc pháp, Lộc Môn khuyên sư đến yết kiến sư ông (tức là thầy của Lộc Môn) là Thiền sư Phù Dung Đạo Khải. Tuy nhiên, sư không có cơ hội gặp được Phù Dung mà lại tình cờ gặp được Thiền sư Đan Hà Tử Thuần - môn đệ đắc pháp khác của Phù Dung.[3]

Trong khoảng năm 1119 - 1126, sư đến hoằng pháp ở chùa Thiên Ninh.[3] Tại đây, sư nhập thất và soạn 100 câu hỏi để khảo nghiệm trình độ tu chứng của người tu học, sau biên tập thành sách Thanh Châu Bách Vấn, danh tiếng của sư vang khắp vùng Đại Hà. Sư cũng từng trụ trì tại Vạn Thọ tự ở Đông Đô (1140), Phổ Chiếu tự, Hoa Nghiêm tự. Đặc biệt, tại Hoa Nghiêm tự (nay là chùa Đàm Giá, Bắc Kinh), sư nỗ lực đề xướng tông phong tông Tào Động và giới luật mạnh mẽ, được người đời tôn xưng là Tỵ tổ của tông Tào Động.[5][6]

Cuối đời, sư trụ trì tại Viện Thanh Thủy ở Ẩn Dương. Một hôm, sư lâm bệnh nhẹ, bèn gọi đại chúng đến nói kệ phó chúc. Nói kệ xong sư bảo chúng: "Ta muốn trở về!"[5] Rồi an nhiên thị tịch, trụ thế 69 năm. Đệ tử trà tỳ xây tháp thờ ở núi Phần Ngưỡng.[4]

Nguồn tham khảo sửa

  1. ^ “希辯”. DILA. Truy cập ngày 6 tháng 9, 2023.
  2. ^ “一辯”. Jendow. Truy cập ngày 7 tháng 9, 2023.
  3. ^ a b c Jiang Wu (2008). Enlightenment in Dispute: The Reinvention of Chan Buddhism in Seventeenth-Century China. Oxford University Press. tr. 298–299.
  4. ^ a b Hư Vân. Phật Tổ Đạo Ảnh. Thư viện Huệ Quang.
  5. ^ a b Thích Thiện Phước (2015). Thiền Uyển Kế Đăng Lục. Nxb Hồng Đức. tr. 252–253.
  6. ^ Thích Di Sơn. “Nghiên cứu mạch truyền thừa của các Thiền sư Tông Tào Động tại Trung Quốc - Theo nhánh phát triển sang Việt Nam”. Chùa Phật Học Xá Lợi. Truy cập ngày 6 tháng 9, 2023.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán