Thanh An (đạo diễn)

nhà làm phim tài liệu Việt Nam

Thanh An (25 tháng 12 năm 1934 – 21 tháng 4 năm 2011)[1] là một nhà làm phim tài liệu nổi tiếng của điện ảnh Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Điện ảnh Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú vào năm 1993 và Nghệ sĩ nhân dân vào năm 2001.[2]

Nghệ sĩ nhân dân
Thanh An
Phó Tổng thư ký (thường trực)
Hội Điện ảnh Việt Nam
Nhiệm kỳ1989 – 2000
Tổng thư kýĐặng Nhật Minh
Phó Tổng thư ký
Tiền nhiệm
Kế nhiệmTrần Thế Dân
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Nguyễn Thanh An
Ngày sinh
(1934-12-25)25 tháng 12, 1934
Nơi sinh
Triệu Phong, Quảng Trị
Mất
Ngày mất
21 tháng 4, 2011(2011-04-21) (76 tuổi)
Nơi mất
Hà Nội
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệpĐạo diễn
Gia đình
Vợ
Trương Thị Thanh Huyền
Lĩnh vựcĐiện ảnh
Danh hiệuNghệ sĩ ưu tú (1993)
Nghệ sĩ nhân dân (2001)
Sự nghiệp âm nhạc
Năm hoạt động1955 – 1965
Đào tạoTrường Âm nhạc Việt Nam
Sự nghiệp điện ảnh
Năm hoạt động1966 – 2007
Đào tạoTrường Điện ảnh Việt Nam
Thể loạiPhim tài liệu
Tác phẩmNgọn đèn cửa biển
Bài học về một con người
Hồ Chí Minh với Trung Quốc
300 năm Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh
Giải thưởng
Liên hoan phim Việt Nam 1996
Đạo diễn xuất sắc

Cuộc đời

sửa

Thanh An tên đầy đủ là Nguyễn Thanh An, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1934 tại làng Bích La Nam, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông nhập ngũ từ tháng 1 năm 1951 và trở thành lính trinh sát thuộc biên chế của Sư đoàn 325 khi chỉ vừa 16 tuổi. Sau khi Thanh An cùng sư đoàn tham gia Chiến dịch Đông Xuân từ năm 1953 đến năm 1954 một thời gian thì hòa bình lập lại ở miền Bắc Việt Nam, Sư đoàn 325 được thành lập một đoàn văn công không chuyên. Năm 1955, Thanh An được điều về đoàn văn công này. Cũng ngay trong năm này, ông đã viết vở kịch Sự thật ở miền Nam. Không chỉ là vở kịch đầu tay của đạo diễn Thanh An, đây còn là tiết mục chủ đạo của đoàn văn công Sư đoàn 325 trong nhiều năm lưu diễn.[3]

Năm 1958, khi đang là trưởng đoàn văn công, ông được cử đi học tại Trường Âm nhạc Việt Nam (sau này là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Tại đây, ông theo học khoa Hơi, chuyên ngành Kèn dưới sự hướng dẫn của các giáo viên và chuyên gia đến từ Liên Xô. Sau khi tốt nghiệp loại ưu, ông được nhà trường giữ lại giảng dạy trong 2 năm.[3] Năm 1965, ông xin vào khóa điện ảnh "chống Mỹ cứu nước" của Trường Điện ảnh Việt Nam cùng với nhiều nhà làm phim nổi tiếng về sau như Đào Trọng Khánh, Trần Văn Thủy, Xuân Sơn, Sĩ Chung, và bắt đầu gắn bó với ngành điện ảnh kể từ đó.[4] Tác phẩm tốt nghiệp được quay bằng phim 16mm về đảo đèn Long Châu đã giúp Thanh An nhận được bằng tốt nghiệp loại ưu. Những chất liệu ông có được trong những chuyến khảo sát thực tế để làm bộ phim tốt nghiệp còn giúp ông cho ra đời bộ phim tài liệu Ngọn đèn cửa biển vào năm 1966, tác phẩm đã giành được Cúp Bạc tại Liên hoan phim Á Phi và Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam.[5]

Năm 1967, ông tốt nghiệp trường điện ảnh và về làm việc tại Xưởng phim Tài liệu – Thời sự Việt Nam (nay là Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương). Tháng 2 năm 1989, ông được bầu làm Phó Tổng thư ký của Hội Điện ảnh Việt Nam tại Đại hội lần thứ 3, và đảm nhiệm vai trò này 2 nhiệm kỳ liên tiếp.[6] Năm 2001, ông bắt đầu thực hiện bộ phim tài liệu về Tổng bí thư Lê Duẩn.[7] Nhưng đến năm 2004 bộ phim mới được hoàn thành,[8] và ra mắt vào năm 2007 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Tổng bí thư.[9] Ngày 21 tháng 4 năm 2011, ông qua đời ở Hà Nội, thọ 77 tuổi.[10]

Tác phẩm

sửa
Năm Phim Vai trò Chú Nguồn
Đạo diễn Biên kịch Quay phim Lời bình
1968 Ngọn đèn cửa biển Không Không Không [11][12]
1970 Vì độc lập tự do Không Không Không
1974 Những bài ca từ chiến hào Không Không [13]
1982 Ước mơ về cây đay Không Không
1986 Bài học về một con người Không Không [14]
1995 Hát quan họ Không Không [15]
1996 Hồ Chí Minh với Trung Quốc Không [a] [16][17]
1998 300 năm Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh Không Không [b] [18][19]
2007 Tổng bí thư Lê Duẩn Không Không Không [9][8]

Thành tựu

sửa

Danh hiệu

sửa

Giải thưởng

sửa
Năm Lễ trao giải Hạng mục Tác phẩm Kết quả Nguồn
1969 Liên hoan phim Á Phi Phim tài liệu Ngọn đèn cửa biển Cúp Bạc
1970 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 1 Bông sen bạc [12][21]
1975 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 3 Những bài ca từ chiến hào Bằng khen [22]
1988 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 Bài học về một con người Bông sen bạc [23]
1996 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11 Hồ Chí Minh với Trung Quốc Bông sen vàng [24]
Đạo diễn xuất sắc Đoạt giải [25]
1997 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1996 Phim tài liệu nhựa Giải A [17][26]
1999 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1998 300 năm Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh Giải B [27]
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12 Phim tài liệu Bông sen bạc

Đời tư

sửa

Đạo diễn Thanh An kết hôn với nghệ sĩ biểu diễn Thanh Huyền, nữ ca sĩ đầu tiên được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.[28] Cả hai có 2 người con, một con trai và một con gái.[29] Thời điểm đạo diễn Thanh An qua đời vào năm 2011, con trai cả của ông bà đang đi du học và làm trợ giảng cho một trường đại học ở Đức, anh đã có vợ và hai người con gái. Con gái út của ông bà là Thanh Hằng đã nối nghiệp mẹ làm nghệ sĩ biểu diễn.[30]

Chú thích

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Đồng đạo diễn: Đào Trọng Khánh
  2. ^ Đồng đạo diễn: Lê Mạnh Thích

Tham khảo

sửa
  1. ^ Đào Trọng Khánh (19 tháng 5 năm 2017). “Bài thuốc tự sinh và người bộ hành vĩ đại”. Sức khỏe và Đời sống. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2023.
  2. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 512.
  3. ^ a b Lê Ngọc Minh (2001), tr. 8.
  4. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 96.
  5. ^ Lê Ngọc Minh (2001), tr. 9.
  6. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 511.
  7. ^ “Khởi quay bộ phim tài liệu về cố tổng bí thư Lê Duẩn”. VnExpress. 10 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2023.
  8. ^ a b “Phim tài liệu mới về Tổng Bí thư Lê Duẩn”. Tuổi Trẻ Online. 4 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2023.
  9. ^ a b “Chiếu phim "Tổng bí thư Lê Duẩn". Báo Quân đội nhân dân. 12 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  10. ^ Đào Thanh Tùng (22 tháng 4 năm 2011). “Đạo diễn Thanh An - ngọn đèn biển đã tắt”. Tuổi Trẻ Online. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  11. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 604.
  12. ^ a b Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 107.
  13. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 642.
  14. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 202–203.
  15. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 445.
  16. ^ Ngô Phương Lan (1998), tr. 38.
  17. ^ a b Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 93.
  18. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 194.
  19. ^ Lý Phương Dung (12 tháng 3 năm 2013). “Những người "chép sử" bằng điện ảnh”. Báo Nhân Dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
  20. ^ V.H. (7 tháng 9 năm 2001). “256 nghệ sĩ được trao danh hiệu NSND và NSƯT”. VnExpress. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2023.
  21. ^ Cát Khuê (30 tháng 5 năm 2014). “Người làm nên huyền thoại Ngư Thủy đã ra đi...”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  22. ^ Trọng Trường (15 tháng 11 năm 2017). “NSND Thanh Huyền đau đáu nỗi nhớ chồng quá cố”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2022.
  23. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 622.
  24. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 93 & 625.
  25. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 681.
  26. ^ Hội Điện ảnh Việt Nam (2020), tr. 69.
  27. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 95.
  28. ^ “Vợ chồng NSND Thanh Huyền – Thanh An: Những tháng ngày hạnh phúc”. Báo Công an Nhân dân điện tử. 13 tháng 4 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  29. ^ Ngọc An (1 tháng 3 năm 2016). “Giọng ca vàng thuở ấy… bây giờ: Thanh Huyền - ngôi sao trên sóng phát thanh”. Báo Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  30. ^ Vũ Quỳnh Trang (8 tháng 6 năm 2011). “NSND Thanh Huyền: Tình yêu ở lại”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.

Nguồn

sửa