Tiêu Thái hậu (nhà Đường)

(Đổi hướng từ Trinh Hiến hoàng hậu)

Tích Khánh Tiêu Thái hậu (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847[1][2]), còn được gọi là Trinh Hiến hoàng hậu (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và là mẹ của Đường Văn Tông Lý Ngang trong lịch sử Trung Quốc.

Tích Khánh Tiêu thái hậu
積慶蕭太后
Đường Văn Tông sinh mẫu
Hoàng thái hậu Đại Đường
Tại vị826 - 847
(đồng vị với Nghĩa An Thái hậu)
Tiền nhiệmÝ An Quách Thái hậu
Kế nhiệmHiếu Minh Trịnh Thái hậu
Thông tin chung
Sinh?
huyện Mân, Phúc Châu
Mất1 tháng 6, năm 847
Tích Khánh điện, Đại Đường
An tángQuang lăng (光陵)
Phối ngẫuĐường Mục Tông
Lý Hằng
Hậu duệĐường Văn Tông
Thụy hiệu
Trinh Hiến hoàng hậu
(貞獻皇后)

Tiểu sử sửa

Tích Khánh Thái hậu Tiêu thị nguyên quán huyện Mân, nay là Phúc Châu, Phúc Kiến[3]. Tiêu thị trở thành phi thiếp của Đường Mục Tông khi ông còn là Kiến An vương[4][5]. Khi bà rời quê, cha mẹ bà đã qua đời, còn lại một người em trai sống ở quê.

Năm Nguyên Hòa thứ 4 (809), Tiêu thị hạ sinh Lý Ngang, tức Đường Văn Tông sau này[3]. Năm Trường Khánh nguyên niên (821), lúc này Mục Tông đã đăng cơ, con trai bà là Lý Ngang được phong làm Giang vương (江王). Tuy nhiên, không rõ địa vị phi tần của bà trong hậu cung[3][6]. Theo lý, bà có lẽ sẽ trở thành [Giang Vương thái phi] do con trai được phong tước Vương, song đến nay vẫn không có tài liệu nào chắc chắn vấn đề này.

Hoàng thái hậu sửa

Hiển quý sửa

Năm Bảo Lịch thứ 2 (826), mùa xuân, Đường Kính Tông Lý Đam bị ám sát. Hoạn quan Lưu Khắc Minh (劉克明) muốn khống chế triều đình và đưa con trai của Đường Hiến Tông là Giáng vương Lý Ngộ (李悟) làm Hoàng đế.

Ngày 10 tháng 1 cùng năm, Khắc Minh giả di chiếu, đưa Giáng vương ra gặp chư tể tướng. Bọn Khắc Minh lại bố trí tay chân nắm giữ cung điện, mưu trừ các hoạn quan khác. Nhóm hoạn quan gồm Xu mật sứ Vương Thủ Trừng (王守澄), Trung úy Lương Thủ Khiêm (梁守謙), Ngụy Tòng Gián (魏從簡) nghe tin có biến động, bèn tập hợp binh lính tiến vào cung diệt tặc, đồng thời cho đón Giang vương Lý Ngang vào cung. Cuối cùng, quân Thần Sách của Vương Thủ Trừng và quân Phi Long giết chết hết bọn loạn đảng Lưu Khắc Minh, Giáng vương Ngộ cũng chết trong loạn quân. Ngày 13 tháng 1, Giang vương Lý Ngang chính thức lên ngôi, trở thành Đường Văn Tông.

Ngày 16 tháng 1 cùng năm, Văn Tông tôn mẹ là Tiêu thị làm Hoàng thái hậu. Sách tôn viết:

Theo vai vế, Văn Tông là em của Kính Tông, do đó mẹ của Kính Tông là Vương Thái hậu không tôn làm Thái hoàng thái hậu, mà lấy niên hiệu Bảo Lịch để làm tôn hiệu, gọi Bảo Lịch Thái hậu (寶曆太后). Lúc đó, Quách Thái hoàng thái hậu có địa vị cao nhất nên được bố trí ở Hưng Khánh cung (興慶宮), Vương Thái hậu ở Nghĩa An điện (義安殿), còn Tiêu Thái hậu sống ở trong Đại nội, đương thời xưng gọi [Tam cung Thái hậu; 三宮太后]. Đường Văn Tông vốn tính hiếu thuận, phụng sự Tam cung đều như nhau. Mỗi khi các nơi tiến công kì trân dị vật thì trước đưa đến tông miếu, tiếp đó dâng đến Tam cung còn dư thừa mới để tự mình chi dùng[7][8].

Truy tìm em trai sửa

Được hiển quý, Tiêu Thái hậu nhớ đến người thân là đứa em trai duy nhất, bà bèn thỉnh cầu Văn Tông. Sau khi nghe đến, Văn Tông lệnh cho Tiết độ sứ Phúc Kiến tìm kiếm người em trai đã thất lạc của bà, nhưng không tìm ra. Tình cờ, một công nhân làm tràTiêu Hồng (蕭洪), tìm kiếm người chị thất lạc của mình. Một thương nhân Triệu Chuẩn (趙縝) đã giới thiệu Tiêu Hồng với con rể Từ phu nhân là Lữ Chương (呂璋). Từ phu nhân không xác minh được nên dẫn Tiêu Hồng đến gặp Tiêu Thái hậu. Văn Tông tin Tiêu Hồng là cậu mình, cho vào hàng quốc thích làm việc ở cung Thái tử[3][7][9]. Tiêu Hồng sau đó trở thành Thống lĩnh cấm quân, sau đó nữa thành Tiết độ sứ Hà Dương (河陽)[10], sau đó chuyển sang Phu Phường (鄜坊)[3][11]

Tuy nhiên, một thời gian sau, quan đại thần Lý Huấn (李訓) cho rằng Tiêu Hồng không phải em trai của Thái Hậu. Lo lắng, Tiêu Hồng tìm cách lấy lòng em trai Lý Huấn là Lý Trọng Nguyên (李仲京). Lúc đó, một vài hoạn quan Thần Sách quân (神策軍) được gửi đến để phục vụ Tiết độ sứ, ban đầu được trả phí đi đường, nhưng sau đó lại đòi trả gấp ba sau khi đến. Một trong số Tiết độ sứ tiền nhiệm của Phu Phường là người trong Thần Sách quân, nhưng đã chết trước khi Tiêu hoàn trả chi phí. Chủ nợ không hài lòng, muốn Tiêu Hồng chi trả cho người tiền nhiệm, Tiêu khước từ. Khi chủ nợ thử đòi con trai người tiền nhiệm, Tiêu bảo người con đó tìm Lý Huấn can thiệp. Lý Huấn ra lệnh cho người con trên từ chối trả nợ. Sau khi Lý Huấn bị giết trong Sự biến Cam Lộ, hoạn quan quyền lực Cừu Sĩ Lương (仇士良) trở nên hiềm khích với Tiêu Hồng[12].

Trong khi đó, em trai thật sự của Tiêu thái hậu vẫn còn ở Phúc Châu. Tiêu Bổn (蕭本), một người họ hàng, thông qua bàn luận xác định được là thành viên trong gia đình họ Tiêu. Tiêu Bổn trình báo với Cừu, kết tội Tiêu Hồng giả mạo làm em trai Thái hậu. Năm Khai Thành nguyên niên (836), Tiêu Hồng bị lưu đày đến Hoan Châu (驩州)[13], nhưng trước khi đi thì bị ban chết. Đường Văn Tông tin rằng Tiêu Bổn thật sự là cậu mình, cho vào hàng quốc thích, làm việc trong cung của Thái tử Lý Vĩnh[12].

Năm Khai Thành thứ 2 (837), Phúc Châu xuất hiện một người tên Tiêu Hoằng (蕭弘), cho rằng mới thật sự là em trai Tiêu thái hậu. Văn Tông lệnh cho Ngự sử đài (御史台) điều tra sự thật. Hơn một năm sau, điều tra kết luận Tiêu Hoằng bịa đặt, lừa dối. Văn Tông đuổi về nhưng không trừng phạt[12]. Năm thứ 4 (839), Lưu Tòng Gián (劉從諫), Tiết độ sứ của Chiêu Nghĩa (昭義)[14], đệ trình xác nhận lại thân thế Tiêu Hoằng, cho rằng cuộc điều tra trước đó có sự mua chuộc của Tả Thần Sách quân (左神策軍) ủng hộ Tiêu Bổn. Lần này, Văn Tông lệnh cho cả Hình Bộ (刑部) và Đại Lý Tự (大理寺) thẩm tra sự thật. Thời gian sau, cả ba cơ quan thẩm tra đều kết luận Tiêu Bổn lẫn Tiêu Hoằng đều không phải em trai của Tiêu Thái hậu. Tiêu Bổn bị lưu đày đến Ái Châu (愛州)[15]. Tiêu Hoằng bị đày đến Đam Châu (儋州)[16]. Em trai thật sự của Thái hậu vẫn lưu lạc ở Phúc Châu và không giờ tìm được nữa[17]

Cuối đời sửa

Năm Khai Thành thứ 5 (840), Đường Văn Tông băng hà, không có hậu duệ. Theo thứ tự thừa kế, em trai Văn Tông là Đường Vũ Tông Lý Viêm nối ngôi. Vào lúc này, Tiêu Thái hậu được chuyển đến sống tại Tích Khánh điện (積慶殿), vì thế bà có phong hiệu là Tích Khánh thái hậu (積慶太后)[17]. Bà sống qua 6 năm dưới triều Đường Vũ Tông, chứng kiến một em trai khác của Mục Tông là Đường Tuyên Tông lên ngôi.

Năm Đại Trung nguyên niên (847), ngày 1 tháng 6, Tích Khánh điện Hoàng thái hậu Tiêu thị qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Theo chuẩn của một Thái hậu, bà được truy phong thụy hiệuTrinh Hiến hoàng hậu (貞獻皇后). Nhưng sử sách không ghi rõ nơi mà bà an táng, có lẽ cũng là một khuôn viên trong Quang lăng (光陵) - lăng mộ của Mục Tông[2].

Xem thêm sửa

Chú thích sửa

  1. ^ http://dbo.sinica.edu.tw/ftms-bin/kiwi1/luso.sh?lstype=2&dyna=%AD%F0&king=%AB%C5%A9v&reign=%A4j%A4%A4&yy=1&ycanzi=&mm=4&dd=&dcanzi=%A4v%A8%BB[liên kết hỏng]
  2. ^ a b Theo tiểu sử của Tiêu thái hậu trong Cựu Đường Thư, bà qua đời vào giữa triều Đường Vũ Tông, điều này mâu thuẫn với tài liệu khác, cho rằng bà qua đời năm 847, dưới Đường Tuyên Tông. Ngày mất của bà cũng không rõ ràng. Tiểu sử theo Tân Đường thư chỉ chép năm mất là 847 nhưng không ghi rõ ngày. Cựu Đường Thư cho rằng bà qua đời tháng 4 âm lịch nhưng cũng không rõ ngày. Tư trị thông giám cho biết bà mất này Jiyou tháng 3 năm 847, nhưng không tồn tại trong lịch Can Chi. Kỷ của Tuyên Tông trong Tân Đường thư, chỉ rằng Thái hậu qua đời ngày Jiyou tháng 4 âm lịch năm 847 nhưng không chỉ rõ ràng. So sánh Cựu Đường Thư, quyển 18, hạ [bản kỷ Đường Tuyên Tông], 52 [hậu phi liệt truyện], Tân Đường thư, quyển 8 [bản kỷ Đường Tuyên Tông], 77 [hậu phi liệt truyện], và Tư trị thông giám, quyển 248.
  3. ^ a b c d e Cựu Đường Thư, quyển 52
  4. ^ Tân Đường thư, quyển 77
  5. ^ Lý Hằng làm Kiến An vương chỉ một năm từ 805 dến 806, bà trở thành vợ ông vào khoảng thời gian này. Xem Cựu Đường Thư, quyển 16.
  6. ^ Cựu Đường Thư, quyển 17, thượng.
  7. ^ a b Tư trị thông giám, quyển 243.
  8. ^ 舊唐書/卷52: 文宗孝義天然,大和中,太皇太后居興慶宮,寶曆太后居義安殿,皇太后居大內,時號「三宮太后」。上五日參拜,四節獻賀,皆由復道幸南內,朝臣命婦詣宮門起居,上尤執禮,造次不失。有司嘗獻新瓜、櫻桃,命獻陵寢宗廟之後,中使分送三宮、十宅。初,有司送三宮物,一例稱賜。帝曰:「物上三宮,安得名賜?」遽取筆塗籍,改「賜」為「奉」。開成中正月望夜,帝於咸泰殿陳燈燭,奏《仙韶樂》,三宮太后俱集,奉觴獻壽,如家人禮,諸親王、公主、駙馬、戚屬皆侍宴。上性恭儉,延安公主衣裾寬大,即時遣還,罰駙馬竇浣兩月賜錢。
  9. ^ Tuy nhiên lúc đó không có thái tử
  10. ^ Nay là Lạc Dương, Hà Nam
  11. ^ Nay là Diên An, Thiểm Tây
  12. ^ a b c Tư trị thông giám, quyển 245.
  13. ^ Nay là Nghệ An, Việt Nam
  14. ^ Nay là Trường Trị, Sơn Tây
  15. ^ Nay là Thanh Hóa, Việt Nam
  16. ^ Nay thuộc đảo Hải Nam
  17. ^ a b Tư trị thông giám, quyển 246.