Cá nóc vàng
Cá nóc vàng,[2][3] tên khoa học là Lagocephalus spadiceus, là một loài cá biển thuộc chi Lagocephalus trong họ Cá nóc. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1845.
Cá nóc vàng | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Tetraodontiformes |
Họ (familia) | Tetraodontidae |
Chi (genus) | Lagocephalus |
Loài (species) | L. spadiceus |
Danh pháp hai phần | |
Lagocephalus spadiceus (Richardson, 1845) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Từ nguyên
sửaTính từ định danh spadiceus trong tiếng Latinh có nghĩa là "nâu nhạt", hàm ý đề cập đến màu sắc của phần lưng và thân trên của loài cá này.[4]
Phân loại học
sửaLagocephalus wheeleri (thường gọi là cá nóc xanh trong tiếng Việt) đã được xem là đồng nghĩa với cá nóc vàng L. spadiceus.[5]
Cá nóc vàng có hai dạng biến dị kiểu hình, được gọi là kiểu wheeleri và kiểu spadiceus. Vùng gai nhỏ ở lưng trong kiểu wheeleri có dạng elip, nhưng ở kiểu spadiceus thì lại có hình thoi lan rộng một phần ra sau (có thể liên tục hoặc đứt đoạn).[6]
Phạm vi phân bố và môi trường sống
sửaTừ Biển Đỏ và vịnh Ba Tư, cá nóc vàng được phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ bờ biển Đông Phi trải dài về phía đông đến Biển Đông, ngược lên phía bắc đến Nhật Bản và Hàn Quốc, xa về phía nam đến Úc.[1]
Thông qua kênh đào Suez, cá nóc vàng đã mở rộng phạm vi đến Địa Trung Hải và hình thành một quần thể ổn định ở vùng biển này. Cá nóc vàng đã được ghi nhận tại ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ,[7] Israel,[8] đảo Síp,[9] và từ biển Aegea chúng đã tiến vào biển Marmara.[10]
L. spadiceus được tìm thấy chủ yếu ở ngoài khơi, nhưng cũng có thể được bắt gặp ở các khu vực cửa sông, độ sâu có thể lên đến 200 m.[1]
Mô tả
sửaChiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá nóc vàng là 43 cm.[11] Thân trên có màu vàng lục sẫm, thân dưới màu trắng.
Số tia vây ở vây lưng: 11–14; Số tia vây ở vây hậu môn: 10–12; Số tia vây ở vây ngực: 14–17.[5]
Sinh thái học
sửaThức ăn của cá nóc vàng khá đa dạng, bao gồm các loài động vật thân mềm, giáp xác và cá nhỏ hơn.[1]
Thương mại
sửaCá nóc vàng được đánh bắt để làm thực phẩm chủ yếu ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Ở Việt Nam, cá nóc vàng lại được xem là loài có độc tính mạnh.[2] Cá nóc vàng cùng cá nóc bạc và cá nóc răng mỏ chim là những loài mà tỉnh Kiên Giang (Việt Nam) được phép xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.[12][13] Còn ở Thái Lan, cá nóc vàng được đánh giá là loài không có độc, và được chế biến dưới dạng cá viên.[14]
Ở Nhật Bản, cá nóc vàng có giá trị thương mại cao, đến 99,7% sản lượng loài này là được nhập khẩu từ Trung Quốc dưới dạng đông lạnh. Theo khảo sát thì người Nhật thích mùi vị của cá nóc vàng nội địa hơn cá nhập khẩu.[15]
Trái lại, cá nóc vàng được coi là loài gây phiền toái đối với ngư dân Địa Trung Hải.[16]
Tham khảo
sửa- ^ a b c d Matsuura, K.; Leis, J.L.; Hardy, G.; Jing, L.; Liu, M.; Shao, K. (2014). “Lagocephalus spadiceus”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2014: e.T193622A2248751. doi:10.2305/IUCN.UK.2014-3.RLTS.T193622A2248751.en. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
- ^ a b Nguyễn Văn Lệ, Nguyễn Hữu Hoàng, Bùi Thị Thu Hiền (2006). “Kết quả phân tích độc tố cá nóc biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Nghiên cứu Nghề cá biển. 4: 256–264. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Lê Doãn Dũng, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Quốc Đảm (2017). “Hiện trạng nguồn lợi cá nóc biển Việt Nam và vấn đề sử dụng cá nóc ở nước ta” (PDF). Kỷ yếu kỷ niệm 35 năm thành lập Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (1982-2017): 158–166. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Tetraodontiformes: Families Triodontidae, Triacanthidae, Triacanthodidae, Diodontidae and Tetraodontidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
- ^ a b Matsuura, Keiichi (2010). “Lagocephalus wheeleri Abe, Tabeta & Kitahama, 1984, a junior synonym of Tetrodon spadiceus Richardson, 1845 (Actinopterygii, Tetraodontiformes, Tetraodontidae)” (PDF). Memories of the Natural Museum of Natural Sciences, Tokyo. 46: 39–46.
- ^ Sakai, Harumi; Sakamoto, Ryusuke; Yoshikawa, Hiroyuki (2021). “Dorsal spinule patch variations in the puffer Lagocephalus spadiceus from Japan; revisited evidence for the existence of spadiceus- and wheeleri-forms”. Ichthyological Research. 68 (4): 548–551. doi:10.1007/s10228-021-00805-6. ISSN 1616-3915.
- ^ Bilecenoglu, Murat; Taskavak, Ertan; Mater, Savas; Kaya, Murat (2002). “Checklist of the marine fishes of Turkey”. Zootaxa. 113 (1): 157. doi:10.11646/zootaxa.113.1.1. ISSN 1175-5334.
- ^ Golani, Daniel (2005). “Checklist of the Mediterranean Fishes of Israel”. Zootaxa. 947 (1): 1–90. doi:10.11646/zootaxa.947.1.1. ISSN 1175-5334.
- ^ Katsanevakis, S.; Tsiamis, K.; Ioannou, G.; Michailidis, N.; Zenetos, A. (2009). “Inventory of alien marine species of Cyprus (2009)” (PDF). Mediterranean Marine Science. 10 (2): 109–113. doi:10.12681/mms.113. ISSN 1791-6763.
- ^ Tuncer, S.; Aslan Cihangir, H.; Bilecenoglu, M. (2008). “First record of the Lessepsian migrant Lagocephalus spadiceus (Tetraodontidae) in the Sea of Marmara”. Cybium. 32 (4): 347–348. doi:10.26028/cybium/2009-324-010.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lagocephalus spadiceus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
- ^ K.Giang (31 tháng 7 năm 2014). “Kiên Giang: Chỉ xuất khẩu cá nóc thành phẩm sang Hàn Quốc”. Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
- ^ Ngọc Ánh; Kỳ Nam (24 tháng 3 năm 2016). “Vỡ mộng xuất khẩu cá nóc”. Báo Người Lao Động. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ Brillantes, Supapun; Samosorn, Wararat; Faknoi, Sriwanna; Oshima, Yasukatsu (2003). “Toxicity of puffers landed and marketed in Thailand”. Fisheries Science. 69 (6): 1224–1230. doi:10.1111/j.0919-9268.2003.00749.x. ISSN 0919-9268.
- ^ Yamaguchi, Hiroko; Nakaya, Misako; Kaneko, Gen; Yoneda, Chie; Mochizuki, Toshitaka; Fukami, Katsuya; Ushio, Hideki; Watabe, Shugo (2013). “Comparison in taste and extractive components of boiled dorsal muscle and broth from half-smooth golden puffer Lagocephalus spadiceus caught in Japan with those of the same fish imported”. Fisheries Science. 79 (2): 327–334. doi:10.1007/s12562-012-0585-2. ISSN 1444-2906.
- ^ Streftaris, N.; Zenetos, A. (2006). “Alien Marine Species in the Mediterranean - the 100 'Worst Invasives' and their Impact” (PDF). Mediterranean Marine Science. 7 (1): 87–118. doi:10.12681/MMS.180.